Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ sáu: TÔN GIẢ DI-GIÀ-CA
Phiên
âm Hán việt:
Tôn
giả, Trung Ấn Độ nhân.
Sơ học tiên
pháp, nhân Ngũ Tổ chí bỉ quốc, Tôn giả
chiêm
lễ, viết: “Tích dữ Sư đồng
sinh Phạm
thiên, ngã ngộ tiên
nhân thọ
ngã tiên pháp, sư phùng Phật
tử tu tập thiền-na. Tự thử, báo phân thù
đồ, dĩ kinh
lục
kiếp.” Tổ viết: “Chi ly lũy
kiếp, thành tai bất hư! Kim khả xả tà quy
chánh, dĩ nhập
Phật thừa?” Tôn
giả viết:
“Kim hạnh tương
ngộ, phi túc duyên da?
Nguyện Sư từ bi, linh ngã giải
thoát.” Tổ
tức dữ thế
độ thọ
cụ, phó dĩ Đại
Pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ, du
hóa chí Bắc Thiên Trúc quốc, phó pháp dữ Bà-tu-mật. Tức
nhập Sư tử phấn tấn tam-muội,
dũng thân cao thất
đa-la thọ, khước phục bổn tọa, hóa hỏa tự
phần.
Dịch:
Tổ
thứ sáu: Tôn Giả DI-GIÀ-CA
Tôn
giả Di-già-ca (Micchaka, Mikkaka) người Trung Ấn, trước đây có
học pháp tiên. Nhân lúc Ngũ tổ (Đề-đa-ca) đến nước này,
Tôn giả chiêm ngưỡng, đỉnh lễ Ngũ Tổ rồi thưa:
- Thưa Thầy! Xưa con và Thầy cùng sanh lên cõi trời Đại
Phạm, con gặp tiên nhân trao cho pháp tiên, còn Thầy gặp đệ
tử của Đức Phật nên tu tập thiền định. Từ đó, theo
nghiệp báo, chúng ta mỗi người một đường, đã trải qua sáu
kiếp.
Tổ
bảo:
-
Chia cách nhiều kiếp, lời ông chẳng dối hư. Nay ông nên bỏ
tà về chánh và trụ vào Phật thừa.
Tôn
giả thưa:
-
Thưa Thầy! Hôm nay, may mắn được gặp nhau, há chẳng phải
duyên xưa ư? Xin Thầy từ bi giúp con được giải thoát.
Tổ
liền cho Tôn giả xuống tóc xuất gia, truyền giới Cụ Túc và
giao phó Đại pháp. Đắc pháp rồi, Tôn giả du hóa đến Bắc
Ấn Độ, phó pháp cho Bà-tu-mật (Vasumitra), rồi nhập tam-muội
Sư tử phấn tấn, phóng mình lên hư không cao bằng bảy cây đa-la
(tala)[1]
rồi trở lại chỗ ngồi, hóa lửa tự thiêu.
Bài
tán:
Nhất
ngộ túc nhân
Thoát
tận trí giải
Quy
chánh xả tà
Lưỡng thái nhất trại
Sư
tử phấn tấn
Thị
hà tam-muội?
Thiên
cổ du du
Thanh
phong biến giới[2]
Dịch:
Thoắt ngộ nhân xưaNgọn nguồn tỏ rõ
Bỏ
tà quy chánh
So
sánh hai bên
Sư tử phấn tấn
Là
tam-muội gì?
Nghìn xưa dằng dặc
Gió mát muôn nơi.
Kệ
rằng:
Học
Tiên học Phật tuy thù đồ
Thời
tiết nhân duyên đãi thành thục
Ngẫu
nhiên tương phùng nguyên túc định
Lịch
kiếp phân tán vị tận sơ
Nhất
đán khế hợp toàn đạo quả
Vạn
cổ thường dung thị Chân Như
Ngô
bối vi hà vô cảm ứng?
Phàm
tâm nan đoạn trầm ái hồ![3]
(Tuyên
Công Thượng Nhân tác)
Dịch:
Dù
cho Tiên, Phật có khác đường
Đúng
lúc đúng thời cũng đượm hương
Ngẫu
nhiên tương hội duyên đời trước
Bao
phen chia cách vẫn còn vương
Một
sớm hội thông tròn đạo quả
Muôn
đời hằng sáng ấy chơn thường
Hậu
bối bởi đâu
không cảm ứng?
Phàm
phu khó đoạn được tình trường
(Tuyên
Công Thượng Nhân)
Tôn
giả, Trung Ấn
Độ
nhân, sơ học tiên
pháp:
Tổ thứ sáu-Tôn giả Di-già-ca là người Trung Ấn Độ,
ban đầu Ngài học “xuất huyền nhập tẫn”[4],
tu theo pháp môn thần tiên, là người đứng đầu trong tám nghìn
vị tiên lúc bấy giờ.
Nhân
Ngũ Tổ chí bỉ quốc, Tôn giả
chiêm
lễ, viết: “Tích dữ Sư đồng
sinh Phạm
thiên, ngã ngộ tiên
nhân thọ
ngã tiên pháp, sư phùng Phật
tử tu tập thiền-na. Tự
thử, báo phân thù
đồ, dĩ kinh lục
kiếp.”:
Nhân Ngũ Tổ đến nước Ngài, Ngài đến đỉnh lễ Ngũ Tổ và
thưa: “Xưa con và sư phụ cùng vãng sinh lên trời Đại Phạm,
sau đó con gặp tiên nhân A-tư-đà, tiên nhân truyền pháp môn
tu tiên cho con, còn sư phụ gặp đệ tử của Đức Phật, nên
tu tập thiền định. Do đó, hai thầy trò chúng ta hết sinh
rồi chết, chết rồi lại sinh; vì đi khác đường nên thọ
quả báo khác nhau, trải qua sáu kiếp. Thù đồ “殊途”
chính là đường đi khác nhau.
Tổ
viết: “Chi
ly lũy
kiếp, thành tai bất hư! Kim khả xả tà quy
chính, dĩ nhập
Phật thừa?”:
Ngũ Tổ nói: “Lời ông nói rất đúng! Chúng ta cách
biệt nhiều kiếp như thế rồi, nay ông có thể bỏ tà đạo
trở về chính đạo, nhập vào Đại thừa”. Chi ly lũy kiếp
“支離累劫”
chính là xa cách nhiều kiếp như thế rồi.
Tôn
giả viết:
“Kim hạnh tương
ngộ, phi túc duyên da? Nguyện
Sư từ bi, linh ngã giải thoát.”:
Tôn giả Di-già-ca thưa: “Thưa Thầy! Nay chúng ta may
mắn được gặp nhau, đây há chẳng phải là duyên xưa ư? Trước
đây tiên nhân A-tư-đà đã thụ ký cho con: ‘Sau sáu kiếp, ông
sẽ gặp bạn đồng học khi xưa và sẽ độ ông được quả vô
lậu. Xin sư phụ từ bi, giúp con được giải thoát’.”
Tổ
tức dữ thế
độ thọ
cụ, phó dĩ Đại
Pháp:
Ngũ Tổ Đề-đa-ca liền cho Tôn giả xuống tóc xuất gia,
truyền thọ giới Cụ túc và truyền pháp môn tâm ấn của Đức
Phật. (Chú 1).
Tôn
giả đắc pháp dĩ,
du hóa chí Bắc Thiên Trúc quốc, phó pháp dữ Bà-tu-mật:
Sau khi đắc pháp, Lục Tổ liền đi khắp nơi giáo hóa chúng
sinh. Lúc đến Bắc Thiên Trúc, Tôn giả phó pháp cho Bà-tu-mật.
Tức
nhập Sư tử phấn tấn tam-muội,
dũng thân cao thất
đa-la thọ, khước phục bổn tọa, hóa hỏa tự
phần:
Sau đó, Ngài nhập tam-muội Sư tử phấn tấn, phóng mình lên hư
không, cao cách đất bằng bảy cây đa-la; rồi trở lại chỗ
ngồi của mình, dùng chân hỏa của tam-muội, tức lửa của định
này để thiêu thân.
Bài
tán:
Nhất
ngộ túc nhân, Thoát tận trí giải:
Khi vừa gặp nhân duyên xưa thì Tôn giả Di-già-ca thông suốt và
hiểu rõ tất cả.
Quy
chánh xả tà, Lưỡng thái nhất trại:
Ngài trở về chánh giáo, xả bỏ tà giáo; lưỡng thái nhất
trại “兩彩一賽”
chính là so sánh giữa Phật giáo và Đạo giáo.
Sư
tử phấn tấn[5],
Thị hà tam-muội?:
Sư tử phấn tấn này là tam-muội gì?
Thiên
cổ du du, Thanh phong biến giới:
Nghìn xưa, thời gian dài như thế, phong cách thanh cao của vị
Tổ này vẫn còn khắp pháp giới.
Kệ rằng:
Học
Tiên học Phật tuy thù đồ:
Học tiên, học Phật, hai con đường này tuy khác nhau nhưng cũng
là một.
Thời
tiết nhân duyên đãi thành thục:
Khi
thời khắc đã tới, nhân duyên đã chín, thì dù có chạy đi
đâu chăng nữa, vẫn phải quay đầu trở lại
Ngẫu
nhiên tương phùng nguyên túc định:
Ngũ
Tổ và Lục Tổ gặp gỡ nhau, đó là do túc duyên, nhân duyên
từ kiếp xưa, đã sẵn bầy.
Lịch
kiếp phân tán vị tận sơ:
Tuy chia cách rất nhiều đại kiếp nhưng họ vẫn còn nhớ
nhau, vẫn biết được mình.
Nhất
đán khế hợp toàn đạo quả:
Một khi hai người khế hợp thì đạo quả đều sẽ thành
tựu.
Vạn
cổ thường dung thị Chân Như:
Muôn đời luôn còn mãi chính là tự tánh Chân Như này.
Ngô
bối vi hà vô cảm ứng?:
Chúng ta cớ sao không thành đạo?
Phàm
tâm nan đoạn trầm ái hồ!:
Vì tâm phàm phu khó đoạn trừ, nên tất cả chúng ta đều lưu
chuyển trong biển tình ái và bơi lội ở trong đó.
Tuyên
Công Thượng Nhân giảng vào
ngày 13, tháng 11, năm 1977
-------------------------
Chú
1:
Bài kệ truyền pháp của Ngũ Tổ phó chúc cho Lục Tổ thấy
trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục:
Thông
đạt bổn tâm pháp
Vô
pháp vô phi pháp
Ngộ
liễu đồng vị ngộ
Vô
tâm diệc vô pháp[6]
Dịch:
Thông
đạt pháp bổn tâm
Không
pháp không phi pháp
Ngộ
rồi như chưa ngộ
Không
tâm cũng không pháp.
Ngày nay được biết đến qua tên palmyra palm. Cây Đa La
thuộc họ dừa và cao hơn hai mươi
mét. Lá cây Đa La được sử dụng để ghi lại và bảo tồn các
kinh điển Phật giáo ở các quốc gia có nhiều cây này như
Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan ... Các Kinh điển Phật giáo
được khám phá gần đây được bảo tồn và truyền lại theo
hình thức này được gọi là “kinh điển trên lá cọ” (Palm
Leaf Sutras). Các Kinh điển và các kinh sách Phật giáo
thường đề cập đến cây Đa La như một phương thức đo lường
chiều cao, với những câu như "cao bằng
bảy cây đa-la"
như đoạn văn trên đề cập.
Xin tham khảo thêm
http://www.sgilibrary.org/search_dict.php?id=2206
[4]“出玄入牝”Tức
là pháp xuất hồn. (Xem Kinh Lăng Nghiêm quyển 5).
[5]
Sư tử phấn tấn tam-muội 師子奮迅三昧
`(Sanskirt:
Simha-vijrmbhita-samadhi) cũng gọi là Sư tử uy tam-muội,
Sư tử tần thân tam-muội. Gọi tắt Phấn tấn tam-muội. Đây
là loại thiền định có uy lực lớn, giống như sức mạnh
mẽ, nhanh nhẹn của sư tử, cho nên gọi là Sư tử phấn
tấn tam-muội. Theo Hoa Nghiêm Kinh Pháp Giới Thứ Đệ quyển
Trung thì Tam-muội này có thể chia làm 2 loại:
1.
Dứt
trừ các lậu hoặc vô tri nhỏ nhiệm.
2.
Xuất
nhập Tam-muội cực kỳ nhanh chóng.
[Có
thể tham khảo thêm trong phẩm Thập Định của Kinh Hoa Nghiêm].
(Phật
Quang Đại Tự Điển – HT. Thích Quảng Độ dịch)
No comments:
Post a Comment