Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ bảy:
TÔN GIẢ BÀ-TU-MẬT
Tôn
giả, bắc Thiên Trúc quốc nhân dã. Nhân Lục Tổ du hóa,
kiến tôn giả thủ trì tửu khí, nghịch nhi vấn viết : ‘Sư
hà phương lai ? Dục vãng hà sở ?’ Tổ viết : ‘Tòng tự tâm
kai, dục vãng vô xứ.’ Tôn giả viết : ‘Thức ngã thủ
trung vật phủ?’ Tổ viết : ‘Thử thị xúc khí, nhi phụ
tịnh giả.’ Tôn giả viết : ‘Sư thức ngã phủ ?’ Tổ
viết : ‘Ngã tức bất thức, thức tức phi ngã.’ Hậu vị
phi thế viên giới, phó dĩ đại pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ,
hành hóa chí Ca-Ma-La quốc, quảng hưng Phật sự. Hậu phó pháp
ư Phật-Đà-Nan-Đề, tức nhập Từ tâm tam muội. Phục
khởi, thị chúng viết : ‘Ngã sở đắc pháp, nhi phi hữu
cố. Nhược thức Phật địa, ly hữu vô cố.’ Ngữ dĩ, hoàn
nhập tam muội, thị Niết-bàn.
Dịch
:
Tôn
giả là người miền bắc xứ Thiên Trúc. Khi Tổ thứ 6 du hóa
tới, trông thấy tôn giả trong tay cầm một bình dùng để đựng
rượu, đi đến chỗ Tổ hỏi rằng : ‘Sư từ ở đâu lại
? Sẽ đi đến đâu ?’ Tổ đáp : ‘Từ tâm đến, chẳng đi
đến nơi nào.’ Tôn giả hỏi : ‘Sư có biết vật tôi cầm
trong tay là cái gì không ?’ Tổ đáp : ‘Đây là đồ dùng dơ
dáy, nhưng nó chứa đồ thanh tịnh.’ Tôn giả hỏi : ‘Sư có
biết tôi không ?’ Tổ nói : ‘Ta thì không biết ngươi,
nếu biết thì chẳng phải ta.’ Sau đó Tổ cho tôn giả cạo
tóc và thọ đầy đủ giới pháp cùng truyền lại Đại Pháp
cho tôn giả. Nhận lãnh pháp xong, tôn giả đi giáo hóa đến
nước Ca-Ma-La làm cho Phật giáo được hưng thịnh. Về sau, tôn
giả truyền pháp cho Phật-Đà-Nan-Đề, vào định Từ tâm,
rồi ra định, nói trước đại chúng : ‘Pháp ta đã được,
chẳng phải là cái có. Nếu muốn biết chỗ của Phật thì
phải lìa có và không.’ Nói xong, tôn giả lại vào định
rồi nhập Niết-bàn.
Tán
viết :
Vân
trình tường thụy
Kim
sắc hoảng hoa
Thủ
trì xúc khí
Quy
nguyên lộ trực
Hiện
từ tâm tướng
Giao
bồn niêm xuất
Thuyết
pháp thị chúng
Hồ
bính áp trấp.[1]
Dịch
:
Mây
bầy điềm lành
Vàng
ối sáng chói
Tay
cầm bình rượu
Về
nguồn đường ngay
Hiện
tướng từ tâm
Trong
chậu lấy ra
Nói
pháp thị chúng
Hút
ngọt trong bánh
Hoặc
thuyết kệ viết :
Bắc
Thiên Trúc quốc sanh thánh nhân
Thủ
trì xúc khí vấn tiền nhân
Tòng
tự tánh lai vô sở khứ
Thức
tức phi ngã hữu hà nhân
Từ
tâm chánh định thính khứ nhập
Bi
quang biến chiếu mãn càn khôn
Kim
sắc liên hoa tiếp học giả
Ma
ha bát nhã bí linh văn.[2]
Tuyên
Hóa Thượng Nhân tác, nhất cửu thất thất niên thập nhị
nguyệt thập tứ nhật.
Dịch
:
Bắc-Ấn
nẩy sinh một thánh nhân
Tay
cầm bình rượu hỏi tiền thân
Lại
từ tự tánh, không nơi đến
Biết
chẳng là ta, hỏi biết ai ?
Chánh
định tâm từ luôn xuất nhập
Tâm
bi rạng chiếu khắp càn khôn
Sen
vàng tiếp nối truyền tâm ấn
Pháp
bí anh linh trí huệ chân
Thượng
Nhân Tuyên Hóa trước tác ngày 14 tháng 12 năm 1977
Bài
Giảng
(Bài
sau đây do đệ tử của Thượng Nhân thảo ra để thay thế
bổn gốc đã bị thất lạc)
Tôn
giả, bắc Thiên Trúc quốc nhân dã :
Tổ thứ 7 là Bà-Tu-Mật, vốn người miền bắc xứ Thiên Trúc.
Thường ngày mỗi khi đi ra ngoài, ngài ăn mặc sạch sẽ,
tay cầm bình rượu, có khi miệng ngâm nga, có khi kêu hú,
mọi người thường cho là điên khùng.
Nhân
Lục Tổ du hóa, kiến tôn giả thủ trì tửu khí :
Nguyên vị tổ thứ 6 là Di-Già-Ca, người miền trung xứ Ấn,
sau khi được pháp rồi đi du hóa khắp mọi nơi độ các chúng
sanh. Một hôm, tới Bắc-Ấn, Tổ chợt ngước thấy một
vầng mây mầu vàng ối, phủ trên mép bờ tránh tên đạn
của bức tường thành, bèn thốt ra lời tán thán : ‘Đây là
vượng khí về đạo, chắc chắn ở đây có thánh nhân, có
thể nối pháp của ta được !’ Nghĩ
như vậy, Tổ bèn đi vào thành thì gặp tôn giả đang đi trên
đường, trong tay cầm một bình rượu.
Tôn
giả Bà-Tu-Mật thấy Tổ liền đi tới. . .
Nghịch
nhi vấn viết : ‘Sư hà phương lai ? Dục vãng hà sở ?’ :
Tôn giả hỏi Tổ : ‘Sư phụ từ đâu mà tới đây ? Rồi tính
đi tới địa phương nào vậy ?’
Tổ
viết : ‘Tòng tự tâm lai, dục vãng vô xứ.’ :
Tổ đáp : ‘Từ tự tánh mà lại đây, chẳng tới một nơi
nào.’
Tôn
giả viết : ‘Thức ngã thủ trung vật phủ?’ :
Sư phụ biết vật gì ở trong tay tôi không ?
Tổ
viết : ‘Thử thị xúc khí, nhi phụ tịnh giả.’
: Tổ nói ‘Đây là đồ
đựng các loại dơ dáy, vậy mà trong đó nó chứa vật thanh
tịnh.’
Tôn
giả viết : ‘Sư thức ngã phủ ?’ :
Tôn giả hỏi : ‘Sư phụ biết tôi chăng ?’
Tổ
viết : ‘Ngã tức bất thức, thức tức phi ngã.’
: Tổ đáp : ‘Ta chẳng biết ngươi đâu ! Nếu nhận ra ngươi
thì đó chẳng phải là ta !’ Tổ lại nói : ‘Ngươi hãy nói
tên họ ra, ta sẽ chỉ cho biết nhân duyên đời trước của
ngươi.’ Tôn giả Bà-Tu-Mật
trả lời : ‘Từ vô lượng kiếp đến ngày tôi sanh tại
nước này, dòng họ của tôi là Phả-La-Đọa và tên tôi là
Bà-Tu-Mật.’
Tổ
thứ 6 đáp : ‘Thầy của ta là Đề-Đa-Ca từng cho ta hay
rằng : Đức Phật năm xưa khi đi du hóa tới miền bắc Ấn có
nói cho tôn giả A-Nan biết là tại đây sẽ có thánh nhân ra
đời, họ là Phả-La-Đọa, tên là Bà-Tu-Mật, sau làm Tổ đời
thứ 7. Ngươi thấy chăng ? Đức Thế Tôn đã từng thọ ký
cho ngươi, vậy ngươi nên xuất gia đi.’ Nghe xong, tôn giả
bỏ ngay bình rượu xuống đảnh lễ Tổ, đứng sang bên
cạnh và nói rằng : ‘Con hồi tưởng tới vô lượng kiếp xưa
con là một thí chủ đã từng cúng dường vị Phật thời
ấy một cỗ pháp tọa quý rồi vị Phật đó thọ ký cho con
rằng sau này con sẽ tuyên dương truyền bá thánh giáo trong
thời Hiền kiếp của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Điều này
hoàn toàn giống lời sư phụ nói, nay con xin sư phụ giúp con
thoát vòng sanh tử.’
Hậu
vi phi thế viên giới, phó dĩ đại pháp :
Tổ liền cho tôn giả cạo tóc xuất gia, thọ giới Cụ túc,
rồi lại đem pháp tâm ấn truyền cho tôn giả, cùng lời phó
chúc giữ gìn chánh pháp với bài kệ truyền pháp như sau :
Vô
tâm vô khả đắc
Thuyết
đắc bất danh pháp
Nhược
liễu tâm phi tâm
Thủy
liễu tâm tâm pháp[3]
Dịch
:
Không
tâm không thể được
Nói
được chẳng gọi pháp
Nếu
rõ tâm chẳng tâm
Mới
rõ tâm tâm pháp
Tôn
giả đắc pháp dĩ, hành hóa chí Ca-Ma-La quốc, quảng hưng
Phật sự. Hậu phó pháp ư Phật-Đà-Nan-Đề
: Sau khi được pháp, tôn giả đi giáo hóa tới nước Ca-Ma-La
(Kamala), nơi nào Phật sự cũng rất hưng thịnh. Ở nơi đây,
tôn giả truyền pháp tâm ấn lại cho tổ Phật-Đà-Nan-Đề
(Buddhanandi).
Tức
nhập từ tâm tam muội. Phục khởi, thị chúng viết :
Khi Tổ thứ 8 đã được ấn chứng, tôn giả vào định Từ
tâm, rồi lại ra định nói với đại chúng :
Ngã
sở đắc pháp, nhi phi hữu cố. Nhược thức Phật địa, ly
hữu vô cố.’ :
Pháp ta đạt được chẳng phải đó là cái “có”, chẳng
phải là có cái gì được. Nếu muốn biết cảnh giới của
Phật thì phải lìa cả cái “có” và cái “không”, cũng là
nghĩa chẳng “có” mà chẳng “không”.
Ngữ
dĩ, hoàn nhập tam muội, thị Niết-bàn :
Tôn giả Bà-Tu-Mật nói xong, lại trở vào định và viên
tịch.
Bài
Tán :
Vân
trình tường thụy, kim sắc hoảng hoa
: Vầng mây kết thành điềm lành, ánh sáng chiếu soi rạng
rỡ cả bầu trời.
Thủ
trì xúc khí, quy nguyên lộ trực
:
Tay
tôn giả cầm bình rượu ; thái độ này cũng là tượng trưng
cho một pháp. Con đường thẳng dẫn về nguồn, ý nói đi
thẳng về nhà của mình, đã nhận ra bổn lai diện mục của
mình, không còn mê lầm nữa.
Hiện
từ tâm tướng, giao bồn niêm xuất :
Tôn giả vào trong định Từ tâm, thị hiện tướng từ tâm
giống như người ta lấy đồ từ trong chậu ra.
Thuyết
pháp thị chúng, hồ bính áp trấp :
Thuyết pháp khai thị cho đại chúng giống như hút chất đường
mật trong cái bánh ngọt.
Bài
Kệ :
Bắc
Thiên Trúc quốc sanh thánh nhân
: Một vị thánh ra đời ở miền Bắc-Ấn, đó là tôn giả Bà-Tu-Mật,
vị tổ sư thứ bảy thiền tông.
Thủ
trì xúc khí vấn tiền nhân :
Vị đó tay cầm bình rượu đến trước Tổ thứ 6 gạn hỏi
về các nhân duyên đời trước.
Tòng
tự tánh lai vô sở khứ :
Tổ thứ 6 nói : ‘Ta từ tự tánh mà lại đây, chẳng đi
tới một nơi nào.’
Thức
tức phi ngã hữu hà nhân ?:
Nhận ra ngươi thì là ai đó, chẳng phải ta. Ai vậy ? Ý ở
đây muốn bảo : “hãy đi mà gặp !”.
Từ
tâm chánh định thính khứ nhập :
Tôn giả Ba-Tu-Mật vào định Từ tâm. Vào định hay ra định
là chuyện bình thường.
Bi
quang biến chiếu mãn càn khôn
: Ánh sáng từ bi của tôn giả chiếu sáng khắp trời đất.
Kim
sắc liên hoa tiếp học giả
: Nhớ lúc xưa, tại hội Linh sơn, Phật cầm bông sen vàng nhìn
đại chúng. Khi ấy mọi người lặng im, duy chỉ có một mình
Kim Sắc Đầu Đà – đây chỉ tôn giả Ca-Diếp – mặt
rạng lên mỉm cười. Phật bèn truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng
cho tôn giả Ca-Diếp, sau tôn giả lại truyền Chánh Pháp Nhãn
Tạng cho tổ thứ 2 là tôn giả A-Nan và từ đó pháp nhãn lưu
truyền đời nọ qua đời kia để tiếp dẫn các vị hậu
học.
Ma
ha bát nhã bí linh văn
: Pháp môn lấy tâm ấn tâm, bí ẩn không hiển bày là một
pháp môn đại trí huệ, là anh linh của vũ trụ, chính khí
của trời đất, mầu nhiệm vô cùng !
No comments:
Post a Comment