Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
TỔ
THỨ 23: TÔN-GIẢ HẠC-LẶC-NA
Tôn
giả, Nhục Chi quốc nhân. Niên nhị
thập nhị xuất gia, thường hữu hạc
chúng tương tùy. Tôn giả vấn nhị
thập nhị tổ viết: “Dĩ hà phương
tiện, linh bỉ giải thoát?” Tổ
viết: “Ngã hữu vô thượng pháp
bảo, nhữ đương thính thụ, hóa vị
lai tế.” Nhi thuyết kệ viết:
Tâm
tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển
xứ thực năng u
Tùy
lưu nhận đắc tính
Vô
hỷ diệc vô ưu[1]
Thời
hạc chúng văn kệ, phi minh nhi khứ. Tôn
giả ký đắc pháp, hành hóa chí trung
Ấn độ, chuyển phó Sư Tử, tức
hiện thập bát biến nhi quy tịch.
Dịch:
Tôn
giả người Nhục-chi, năm 22 tuổi
xuất gia, thường có đàn hạc bay theo
Ngài.
Tôn
giả hỏi Tổ thứ 22 :
-
Thưa Ngài! Làm thế nào để đàn hạc
kia giải thoát ?
Tổ
đáp :
-
Ta có pháp bảo vô thượng, ông nên
nghe kỹ để hoá độ đời sau.
Tổ
đọc kệ :
Tâm
chuyển theo muôn cảnh
Nơi
chuyển thực u huyền
Theo
dòng nhận được tánh
Chẳng
mừng cũng chẳng lo[2].
Đàn
hạc nghe kệ, liền bay lên kêu một
tiếng rồi khuất mất. Sau khi đắc pháp,
Tôn giả du hóa đến Trung Ấn Độ, phó
pháp cho Tôn giả Sư Tử, rồi hiện mười
tám phép thần biến mà viên tịch.
Tán
viết:
Pháp
thuyết long cung
Đạo
phục vũ tộc
Chỉ
quy kỳ nguyên
Đỉnh
môn á mục
Đắc
Sư Tử nhi
Xướng
hoàn hương khúc
Nhục
Chi quốc trung
Tín
hương huân phức[3]
Bài
tán:
Nói
pháp Long cung
Đạo
phục loài chim
Chỉ
về nguồn cội
Đỉnh
đầu mắt sáng
Truyền
pháp Sư Tử
Hát
khúc hoàn hương
Khắp
nước Nhục Chi
Hương
tín xông khắp.
Hoặc
thuyết kệ viết:
Thiên
địa tạo vật phả hy kỳ
Hạc
tùy Tôn giả cảnh ngu mê
Tâm vi cảnh chuyển phi tự tại
Tính
bị vân già chướng Bồ-đề
Khổ
hải vô biên hồi đầu ngạn
Liên
bang hữu lộ cử túc cập
Tự
cổ thành công toàn bằng nhẫn
Dũng
mãnh tinh tấn mạc hồ nghi[4]
(Tuyên công Thượng nhân tác)
Kệ
rằng:
Trời
đất tạo vật lạ muôn bề
Hạc
theo Tôn giả tỉnh u mê
Cảnh
chuyển tâm xoay ngăn tự tại
Mây
che tự tánh chướng Bồ-đề
Mênh
mông biển khổ quay đầu bến
Cõi
Phật thênh thang cất bước về
Vạn
thuở thành công đều nhờ
nhẫn
Tinh
chuyên dũng mãnh Niết-bàn kề.
(Thượng
nhân Tuyên Hóa)
Giảng:
Hôm
nay tôi giảng về Tổ thứ 23. Tính
từ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đến đây
thì Tôn giả Hạc-lặc-na (Haklena) là
Tổ thứ 23. Chúng ta nghe kể lại
cuộc đời của một vị hay nhiều
vị Tổ, nghe xong rồi cho nó qua luôn
chăng? Chúng ta không nên như vậy.
Mỗi khi nghe đến hành vi hay tướng
trạng của một vị Tổ nào, chúng ta
nên tự hỏi mình xem có nên bắt chước
vị đó chăng? Có thật sự muốn thành
một đệ tử tốt của Người hay chăng?
Phải hỏi như vậy đó! Cũng giống như
nói về đạo làm con của chúng ta,
mỗi ngày ta phải tự xét chúng ta có
phải là một người con tốt đối
với cha mẹ hay không? Một người con
hiếu thuận hay lại là một đứa
bất hiếu, bất mục ? Nay, là đệ
tử nhà Phật, chúng ta phải “kiến
hiền tư tề . . .” , thấy bậc
hiền thì nghĩ làm sao mình phải được
như vậy, thấy người xấu thì phải
xem lại chính mình.
Tôn
giả, Nhục Chi quốc nhân: Tôn
giả Hạc-lặc-na là người nước
Nhục Chi, Ấn Độ. Niên
nhị thập nhị tuế xuất gia, thường
hữu hạc chúng tương tùy: Năm
22 tuổi, Tôn giả xuất gia, thường có
đàn tiên hạc bay theo mình. Bất luận
Tôn giả đến nơi nào thì đàn hạc
đều bay theo đến nơi ấy, chúng ríu
rít như chuyện trò với Ngài. Quý vị
thấy kỳ lạ không? Sau núi chúng ta cũng
có tiên hạc, nhưng những con tiên
hạc của chúng ta, ái chà! Chúng không
bay theo người nào cả. Nhưng vì Tôn
giả Hạc-la-na không đến đây, nếu
đến nhất định nó sẽ bay theo Ngài
(chú 1).
Tôn
giả vấn nhị thập nhị Tổ viết: Dĩ
hà phương tiện, linh bỉ giải thoát?
Vì đàn hạc này có duyên với Tôn
giả, nên Tôn giả hỏi Tổ thứ 22:
“Thưa ngài! Con nên dùng pháp môn phương
tiện gì, có thể khiến đàn hạc được
làm thân người, đạt đến giải thoát?”
Đạt đến giải thoát là lìa khổ
được vui. Giải thoát, vốn không người
nào trói buộc quý vị, nhưng vì sao quý
vị không giải thoát? Vì quý vị
chấp trước. Vì quý vị chấp trước,
nên chính mình làm cho mình rối rắm,
như tằm làm kén, tự quấn lấy mình.
Xưa nay, quý vị không giải thoát, không
giải thoát vì quý vị chấp trước và
trói buộc chính mình.
Tổ
viết: ngã hữu vô thượng pháp bảo,
nhữ đương thính thọ, hóa vị lai
tế. Tổ
thứ 22 nói với Tôn giả Hạc-lặc-na:
“Ta có pháp bảo vô thượng, không còn
pháp nào cao hơn, cũng không còn pháp nào
hay hơn. Ông nên lắng nghe và tiếp
nhận để sau này giáo hóa hết thảy
chúng sinh trong đời vị lai, dù dùng
hoài cũng không hết”.
Nhi
thuyết kệ viết: Thế
là, Tổ thứ 22 nói một bài kệ, bài
kệ này nói gì?
Tâm
tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển
xứ thực năng u
Tùy
lưu nhận đắc tính
Vô
hỷ diệc vô ưu
Dịch:
Tâm
theo muôn cảnh chuyển
Nơi
chuyển thật u huyền
Theo
dòng nhận được tánh
Không
mừng cũng không lo
Tâm
tùy vạn cảnh chuyển:
Nếu tâm quý vị thay đổi theo vạn
cảnh thì nhiều cảnh giới xuất
hiện. Nếu tâm quý vị không thay đổi
theo cảnh, lại dùng tâm chuyển cảnh,
thì cảnh không thể chuyển tâm, mà tâm
sẽ chuyển cảnh, đó chính là tự tánh
như như! Như như bất động, rõ ràng
sáng suốt.
Nếu tâm quý vị chuyển đổi
theo vạn cảnh, chuyển xứ thật năng u: Nhưng ngay trong sự thay đổi,
quý vị phải có khả năng đạt đến
chỗ vi diệu. Chữ “U” chính là
cảnh giới không thể nghĩ bàn, là
chỗ vi diệu; chính là ý nghĩa
“thấy việc mà biết xét việc là
xuất thế gian, thấy việc mà mê theo
thì đọa trầm luân” (kiến sự
tỉnh sự xuất thế gian, kiến sự mê
sự đọa trầm luân), hay “mắt thấy
hình sắc lòng vẫn như không, tai nghe
việc đời tâm không hay biết” (nhãn
quán hình sắc nội vô hữu, nhĩ thính
trần sự tâm bất tri). Quý vị mà có
“một niệm vọng động thì trăm
việc khởi lên, khi niệm dừng thì
mọi việc đều không” (niệm động
bách sự khởi, niệm chỉ vạn sự vô),
“tâm dừng niệm tuyệt tức là phú
quý, dục vọng đọan dứt đúng là phước
điền” (tâm chỉ niệm tuyệt thị chân
phú quý, tư dục đoạn tận thị chân
phước điền). Vì vậy, chủ yếu là
tâm quý vị không xoay chuyển theo vạn
cảnh. Vạn sự xung quanh ta đều là
thuyết pháp cả, trong thế gian này
chẳng có cái gì mà không thuyết pháp.
Có điều chúng ta có biết nghe pháp đó
hay không, có hiểu pháp đó hay không mà
thôi. Quý vị hiểu ư? Thế là tâm quý
vị chuyển được cảnh, còn không
hiểu thì cảnh sẽ xoay chuyển quý
vị.
Như
quý vị ham danh cầu lợi chẳng hạn,
cảnh lợi danh ắt sẽ làm quý vị dao
động. Như câu nói: “Danh lợi việc
nhỏ ai cũng thích, sinh tử việc lớn
mấy ai phòng; tâm tịnh là phước, người
không muốn, phiền não là tội ai cũng
tham”. Quý vị xem! Bất kỳ một gia
đình nào cũng xẩy ra cảnh “tám
tấn tuồng” ( bát
xuất hí); nào tranh cãi, phiền não,
tính toán hơn thua, tất cả đều
diễn ra ở đó! Nếu như, ngay trong lúc
đó mà hiểu được lời nói pháp
của cảnh huống như một pháp môn phương
tiện, thì quý vị sẽ đối
cảnh vô tâm, người chuyển cảnh
mà cảnh không thể chuyển người, đó
mới là trí tuệ, mới thực là định
lực chân chánh. Vì vậy tôi nói:
“Chuyển xứ thật năng u”, chuyển
xứ, chính là đạt đến cảnh
giới không thể nghĩ bàn.
Nhưng
làm cách nào mà đạt được? Tùy lưu nhận đắc tánh:
Quý vị tùy thuận pháp thế gian, nhưng
nhận rõ tự tánh là không sinh không
diệt, không dơ không sạch, không tăng
không giảm; tự tánh là thanh tịnh, không
ngăn ngại; nói như vậy không phải là
chỉ nói ngoài miệng, mà thật sự
phải thể nghiệm được và phải
hiểu rõ sự vi diệu trong đó, mới có
thể xác định được!
Nói
“tùy
lưu. . ”(theo dòng. . ) chẳng phải
là bảo quý vị đua bơi theo dòng nước,
chạy theo ngũ dục mà phải y theo phương
châm “tùy duyên bất biến, bất
biến tùy duyên”, và bám thật chắc
vào ba tông chỉ lớn của chúng ta. Ba
tông chỉ lớn ấy là gì? Đó là
“Chết rét không phan duyên, chết đói
không hóa duyên, chết nghèo không cầu
duyên”. Chúng ta phải “Tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên, giữ
gìn ba tông chỉ lớn của chúng ta, vì
Phật
sự quên thân mạng, vì bổn sự tạo
vận mạng, vì Tăng sự lập chánh
mạng; ngay sự hiểu lý, rõ lý là
sự, thực hành rộng rãi mạng mạch
truyền tâm của chư Tổ”. Có như
vậy, mới là “tùy duyên biết được
tánh”, quý vị mới biết rõ Phật tính
vốn có của mình, mới là minh tâm
kiến tánh.
Vô
hỷ diệc vô ưu: Lúc ấy, không
có gì vui mừng mà cũng chẳng có sự
lo âu, luôn như như bất động, hiểu
rõ và luôn sáng suốt (như như bất động,
liễu liễu thường minh), bởi vậy
mới nói “không
vui cũng không lo”.
Thời
hạc chúng văn kệ, phi minh nhi khứ:
Bấy
giờ, đàn hạc nghe kệ, tâm ý chúng
bỗng khai mở, liền kêu lên một
tiếng rồi bay đi.
Tôn
giả ký đắc pháp, hành hóa chí Trung
Ấn Độ, chuyển phó Sư Tử Tỳ-kheo:
Sau khi được pháp tâm ấn, Tôn
giả Hạc-lặc-na đến Trung Ấn Độ,
truyền pháp tâm ấn cho Tỳ-kheo Sư
Tử (Aryasimha).
Thế rồi, tức hiện thập bát biến, nhi quy tịch: Tôn giả ở
giữa hư không hiện 18 thần biến: Đứng,
nằm, ngồi, trên thân ra nước, dưới
thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên
thân ra lửa…biến hiện 18 cảnh
giới không thể suy lường. Sau đó, Ngài
viên tịch.
Bài
tán:
Pháp
thuyết long cung, đạo phục vũ tộc:
Tôn
giả đến long cung thuyết pháp cho long
vương. Ngài là người đức độ, giáo
hóa cả loài cầm thú.
Chỉ
quy kỳ nguyên, đỉnh môn á mục:
Tổ thứ 22 nói kệ tụng, chỉ rõ
cội nguồn. “Đỉnh môn á mục” là
trên đầu có một con mắt khác.
Đắc
Sư Tử nhi, xướng hoàn hương khúc:
Tổ thứ 23 độ Tỳ-kheo Sư Tử, rồi
hát ca khúc trở về quê hương.
Nhục
Chi quốc trung, tín hương huân phức:
Mọi người trong nước Nhục Chi đều
kính tin Tổ, họ được hưởng một
pháp vị thanh tịnh như hương lạ xông
khắp nhà, nên họ mãi mãi không quên
công đức của vị Tổ sư này.
Kệ
rằng:
Thiên
địa tạo vật phả hy kỳ: Câu
thứ nhất nói, trời đất, con người,
vạn vật đều không thể nghĩ bàn.
Hạc
tùy Tôn giả cảnh ngu mê:
Đàn hạc bay theo Tôn giả Hạc-lặc-na
chính là để cảnh tỉnh những chúng
sinh mê muội như chúng ta, kêu gọi chúng
ta giác ngộ. Quý vị xem! Đàn hạc này
dù bị đọa làm súc sinh, nhưng còn
biết theo Tôn giả học pháp, còn chúng
ta là con người lại không biết học
tập Phật pháp.
Tâm
vị cảnh chuyển phi tự tại:
Nếu tâm quý vị chạy theo cảnh giới
thì quý vị không được tự tại.
Tính
bị vân già chướng Bồ-đề:
Tại sao nói mây che? Chính là bị tình
ái làm mê mờ, đó là bị mây che!
Nếu bản tính quý vị bị mây che thì
chướng ngại đạo Bồ-đề.
Khổ
hải vô biên hồi đầu ngạn:
Biển khổ không bờ bến, quý vị quay
đầu chính là bờ vậy.
Liên
bang[5]
hữu
lộ cử túc cập:
Có con đường dẫn ta đến thế giới
Cực Lạc. Chỉ cần quý vị chịu
niệm Phật, chịu phát tâm tu hành, như
đường dù xa có đi thì sẽ đến, không
cần vội vàng.
Tự
cổ thành công toàn bằng nhẫn:
Từ xưa đến nay, quý vị xem, con người
thành công đều do “tâm nhẫn
nại”. Việc gì Tôn giả cũng thành
tựu vì Ngài có tâm nhẫn nại.
Dũng
mãnh tinh tấn mạc hồ nghi:
Vì điều này, quý vị là tín đồ
Phật giáo phải dũng mãnh tinh tấn, không
nên suy nghĩ xằng bậy, nghĩ đông nghĩ
tây, sinh nhiều hoài nghi.
Tuyên
Công Thượng
Nhân giảng vào ngày 6, tháng 9, năm
1981
Chú
1:
Vì sao Tôn giả Hạc-lặc-na thường có
đàn hạc bay theo? Truyền Pháp Chánh Tông
Ký ghi như sau:
…Tôn
giả Hạc-lặc-na lại hỏi Tổ thứ
22: “Xin ngài chỉ dạy cho vì nhân duyên
gì mà con cảm hóa được bầy hạc để
chúng thường theo như vậy?” Đại sĩ
(Tổ thứ 22) đáp: “Xưa, vào kiếp
thứ tư, ông từng làm Tỳ-kheo rất đạo
hạnh và có đến 500 đệ tử. Mỗi
lần Long cung thỉnh ông cúng dường,
ông xét trong hàng đệ tử không ai đủ
tư cách hưởng thọ sự cúng dường
của Long cung nên ông không cho đệ
tử đi theo. Số đệ tử lấy làm lạ
mới thưa: ‘Thầy thường thuyết pháp
nói rằng nếu đối với sự ăn uống
mà bình đẳng thì đối với pháp cũng
bình đẳng, vậy sao nay thầy lại đi
thọ trai một mình?’ Sau đó, khi Long
cung thỉnh, ông cho hết thảy đệ tử
cùng đi, bấy giờ nhờ đức độ
của ông nên không có sự quan ngại gì.
Về sau ông viên tịch, rồi đến các
đệ tử cũng dần dần ra đi. Vì lạm
thực, nên họ chịu quả báo sinh đọa
làm loài chim. Nhưng từ kiếp thứ năm
đến nay chúng được chuyển làm thân
hạc. Vì duyên thầy trò khi xưa, nên
nay mới như vậy.
[2]
"The
mind follows states and turns.
The
place of turning can truly be obscure.
If
following the flow one can recognize, one
obtains the nature.
One
then has no delights, and also has no
worries."
[3]法說龍宮 道服羽族 指歸其源 頂門亞目
得師子兒 唱還鄉曲 月氏國中 信香薰馥
得師子兒 唱還鄉曲 月氏國中 信香薰馥
[4]天地造物頗稀奇 鶴隨尊者警愚迷
心為境轉非自在 性被雲遮障菩提
苦海無邊回頭岸 蓮邦有路舉足及
自古成功全憑忍 勇猛精進莫狐疑
心為境轉非自在 性被雲遮障菩提
苦海無邊回頭岸 蓮邦有路舉足及
自古成功全憑忍 勇猛精進莫狐疑
No comments:
Post a Comment