Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
TỔ
THỨ
22: TÔN
GIẢ
MA-NOA-LA
Tôn
giả, Na-Đề quốc Thường Tự Tại Vương
chi tử giả. Niên tam thập, hội Bà-Tu
Tổ chí bỉ quốc. Vương vấn Tổ viết:
“La Duyệt thành độ dữ thử hà dị?”
Tổ viết: “Bỉ độ tằng hữu tam Phật
xuất thế, kim vương quốc hữu nhị sư hóa
đạo.” Vương viết: “Nhị sư giả thùy?”
Tổ viết: “Phật ký đệ nhị ngũ bách
niên, hữu nhị thần lực đại sĩ, xuất
gia kế thánh, tức vương chi thứ tử
Ma-Noa-La, kỳ nhất dã; ngô tuy đức bạc
cảm đương kỳ nhất.” Vương viết:
“Thành ư tôn giả sở ngôn, đương xả
thử tử tác sa môn.” Tổ viết:
“Thiện tai đại vương, năng tuân Phật
chỉ.” Tứ dữ thế lạc thọ cụ, phó
ư đại pháp. Tôn giả đắc pháp hậu, phó
Hạc-Lặc-Na, tức già phu yêm hóa.
Tôn
giả là con vua Thường Tự Tại nước Na-đề.
Năm Tôn giả 30 tuổi, gặp lúc tổ Bà-Tu
đến nước này, vua cha hỏi :
-
Thưa Ngài! Thành La-duyệt có gì khác nơi
này không ?
Tổ
đáp:
-
Nơi ấy có ba vị Phật xuất thế, nay đất
nước của đại vương có hai bậc đạo
sư hoằng dương Phật đạo :
Vua
hỏi :
-
Thưa Ngài! Hai đạo sư ấy
là ai ?
Tổ
đáp :
-
Đức Phật có thọ ký: “Vào
khoảng thời gian 500 năm lần thứ hai
có hai Đại sĩ thần lực xuất gia kế
thừa dòng Thánh”. Nay Ma-noa-la con thứ
của Đại vương chính
là một người. Tôi tuy phúc đức
cạn mỏng nhưng cũng dám nhận lãnh trách
nhiệm làm người thứ hai.
Vua
nói :
-
Nếu đúng như lời Ngài nói thì trẫm
sẽ cho đứa con này xuất gia làm sa-môn.
Tổ
khen :
Lành
thay ! Đại vương đã tuân theo yếu chỉ
của Đức Phật rồi!
Thế
rồi Tổ xuống tóc, trao giới cụ túc,
truyền Đại pháp cho Tôn giả. Sau khi đắc
pháp, Tôn giả phó chúc cho Hạc-lặc-na
rồi ngồi kiết-già thị tịch.
Tán
viết:
Vương
cung đản sanh
Bất
cư tôn quý
Văn
sư chỉ thị
Đốn
minh túc tuệ
Bào
ảnh phi chân
Thi
đại vô úy
Thể
lộ đường đường
Thiên hoa vạn hủy[1]
Bài
tán:
Sanh
chốn vương cung
Sống
đời thanh đạm
Nghe
Thầy khai thị
Túc
huệ rõ ngay
Bọt
nước giả tạm
Ban
tâm vô uý
Tướng
mạo uy nghi
Ngàn
hoa vạn cỏ.
Hựu thuyết kệ
viết;
Thừa
đại nguyện thuyền độ ngũ trược
Bất
úy gian khổ nhập sa bà
Thác tích vương cung thường tự
tại
Ngụ
cư khách xá Tổ ấn thuyết
Phất
tích thọ ký Ma-Noa thị
Ngã
kim lai phỏng đại đầu đà
Thành
tai ngôn dã ngô đương xả
Quảng
khai pháp đản thuyết vô già[2]
Kệ
rằng:
Cưỡi
thuyền đại nguyện vượt ái hà
Gian
nguy chẳng sợ
nhập Ta-bà
Dừng
gót cung vua Thường Tự Tại
Ngụ
cư khách xá Tổ nói ra
Phật
xưa thọ ký Ma-noa ấy
Nay
ta đến đón Đại Đầu-đà
Y
lời dạy, đứa con xin hiến
Mừng
xuất gia mở hội vô-già.
Giảng:
Tôn
giả, Na-đề quốc Thường Tự Tại vương
chi tử dã:
Tôn giả Ma-noa-la
(Manorhita) là Tổ thứ 22 tính từ Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni. Tôn giả là người
nước Na-đề, con của vua Thường Tự
Tại. Vua Thường Tự Tại là người có
trí huệ, thông tình đạt lý và rất kính
tin Phật giáo. Vì thế, khi Tôn giả chào
đời, vua cảm thấy đứa con này rất khác
thường.
Niên
tam thập, hội Bà-tu Tổ chí bỉ quốc:
Khi Tôn giả 30 tuổi thì được gặp Tổ
Bà-tu-bàn-đầu (Vasubandhu). Khi đó, Tổ đến
nước này cảm thấy có duyên với vị
vua ở đây, nên Tổ đến gặp nhà vua.
Vương
vấn
Tổ viết: La- duyệt thành thổ dữ thử hà
dị?
Vua hỏi Tổ Bà-tu-bàn-đầu: “Thưa Ngài!
Ngài từ thành La-duyệt đến đây, thành
La-duyệt có gì khác đất nước chúng tôi
không?”
Tổ
viết: Bỉ độ tằng hữu tam Phật xuất
thế.
Tổ Bà-tu-bàn-đầu nói: “Thưa Đại vương!
Thành La-duyệt từng có ba vị Phật xuất
thế”. Ba vị Phật này, nói chung là
Phật quá khứ, Phật hiện tại, và Phật
vị lai. Không chỉ thành La-duyệt có ba
vị Phật xuất thế, mà tất cả các nước
đều có Phật xuất thế. Kim
vương quốc hữu nhị sư hóa đạo:
Hiện tại nước của Đại vương có hai
Đạo sư giáo hóa đất nước của Ngài.
Hai vị đạo sư này, Đức Phật sớm đã
thọ ký.
Vương
viết:
Nhị sư giả thùy?
Vua hỏi: “Thưa Ngài! Hai vị Đạo sư
ấy là ai?
Tổ
viết: Phật ký đệ nhị ngũ bách niên,
hữu nhị thần lực đại sĩ, xuất gia
kế thánh. Tức vương chi thứ tử
Ma-noa-la, thị kỳ nhất dã: Tổ Bà-tu-bàn-đầu
nói: “Đức Phật thọ ký: Sau khi Đức
Phật nhập Niết-bàn 500 năm, hai vị Đại
sĩ đại hạnh có thần thông và đại
lực xuất gia, kế thừa pháp tâm ấn
của Phật, làm Tổ thứ 21 và Tổ thứ
22. Thái
tử Ma-noa-la của quốc vương là một người
trong hai vị Tổ này.” Ngã
tuy đức bạc, cảm đương kỳ nhất:
Tổ thứ 21- Bà-tu-bàn-đầu khiêm tốn nói:
“Tôi tuy không có đạo đức gì, nhưng
do Đức Phật thọ ký, nên cũng có thể
coi là người thứ hai”.
Vương
viết:
Vua nói: “Thành như tôn giả sở ngôn,
đương xả thử tử tác sa-môn: Thưa
Ngài! Con biết Ngài không bao giờ vọng
ngữ, những lời Ngài nói rất thành
thật. Bây giờ xin Ngài cho đứa con này làm
đệ tử của Ngài, để trở thành một
vị sa-môn siêng tu giới, định, tuệ;
diệt tận tham, sân, si”.
Tổ
viết:
Thiện tai đại vương, năng tuân Phật
chỉ.
Tổ Bà-tu-bàn-đầu nói: “Thưa Đại vương!
Ngài thật là người thông minh, hiểu rõ
đạo lý, và rất kính tin Phật giáo!
Rất tốt! Ngài đã tuân thủ lời thọ ký
trước đây của Phật”.
Tức
dữ thế lạc thọ ký, phó dĩ đại pháp:
Thế là Tổ cho tôn giả Ma-na-loa xuất
gia, thọ giới cụ túc, và truyền pháp môn
dùng tâm ấn tâm, giáo ngoại biệt
truyền (chú 1). Tôn
giả đắc pháp hậu, phó Hạc-nặc-la,
tức già phu yêm hóa : “Tôn
giả” tức nói Tổ Ma-noa-la, sau khi đắc
pháp, Ngài truyền pháp cho Hạc-lặc-na
(Padnaratna), rồi ngồi kiết-già, không
bệnh mà viên tịch - không chút bệnh gì
mà viên tịch, vãng sinh.
Tán
viết
Vương
cung
đản sinh, bất cư tôn quý:
Ngài sống trong cung vua, nhưng không hề
tham đắm vinh quang và phú quý.
Văn
sư
chỉ thị, đốn minh túc huệ:
Nghe Tổ Bà-tu-bàn-đầu đến khai thị cho
Ngài, lập tức Ngài hiểu rõ căn tánh đời
trước.
Bào
ảnh phi chơn, thí đại vô úy:
Tất cả pháp hữu vi đều “Như mộng
huyễn, bọt nước, như sương, như
chớp”, đó là hư giả. Vì vậy, nên chư
Tổ ban đại vô úy cho chúng sinh.
Thể
lộ đường đường, thiên hoa vạn hủy:
Hiển bày tướng của Phật, đại trượng
phu uy nghiêm. Ngài là vị Tổ được
truyền tâm ấn của Phật, về sau đồ chúng
được Ngài giáo hóa như hoa cỏ, nhiều vô
lượng vô biên.
Hựu
thuyết kệ viết:
(Lại
nói kệ rằng)
Tại
sao nói “hựu”(lại)?
Chữ ‘hựu’ hàm ý nghĩa có sự dư
thừa, một sự không cần thiết, không
bắt buộc phải có. Đó cũng là nghĩa
“trên đầu lại đặt thêm đầu”,
bỗng dưng kiếm việc ra để làm. Ăn no
rồi không có việc làm, mà để cho
vọng niệm lăng xăng thì chẳng hay
gì, nên mới nhân việc giảng
truyện của các chư Tổ mà góp thêm vài
câu. Kỳ thực cũng là ‘vẽ rắn thêm
chân’. Vốn là vẽ rắn, lại vẽ thêm
vài chân, thành ra rắn không phải rắn,
rồng không phải rồng, càng chẳng ra hình
dáng gì hết! Người ta bảo ‘bầy cái
xấu xa không bằng giấu điều kém
cỏi’ nhưng tôi lại cho rằng ‘giấu
điều kém cỏi không bằng bầy cái
xấu xa’, nên ở đây tôi nói mấy câu,
cũng chẳng quan trọng gì, chỉ là nhằm
vào số người mới học Hoa văn hay
những ai đương tập làm câu đối, giúp
họ cái khuôn mẫu đặng họ rút ra các
quy tắc.
Tôi
đọc bài kệ này lên có chỗ nào không
đúng, xin quý vị
nói cho tôi hay, bởi vì thật ra,
chẳng có gì là đúng hay không đúng, tùy
lúc, mọi thứ đều có thể sửa được
cả. Ý tôi là đọc như thế này thì tôi
đọc như thế đó; quý vị muốn nghe như
thế nào thì cứ nghe như vậy, muốn
thấy ra sao thì cứ thấy như vậy. Miệng
nói là tôi, mắt thấy là quý vị, còn
tai nghe thì có quý vị và có cả của tôi.
Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì tôi
ở đây không thể thấy bài kệ trên
bảng đen, còn quý vị ở đó thì trông
thấy; quý vị không nói, tôi thì nói. Do
đó, có khi tôi đọc sai, hoặc là quý
vị thấy sai, hoặc cả hai bên nghe sai, tóm
lại có một sự sai. Giả sử mọi người
đều lầm lẫn, nhưng có một người không
lầm, vậy là đủ rồi đó! Có người chú
tâm, cảm thấy có điểm hữu lý, có ý
nghĩa, được như vậy tôi cho là đủ!
Thừa
đại nguyện thuyền độ ngũ trược:
Tổ Ma-noa-la không phải là người thường,
mà Ngài là người rất đặc biệt. Vì
sao? Vì Ngài sinh vào dòng vua chúa! Không
đặc biệt làm sao được sinh vào cung vua
chứ? Như tôi một đời sinh vào nhà bình
thường. Cho nên vị Tôn giả này không
phải là người thường, mà là người nương
nguyện lực thọ sinh. Ngài nương
đại nguyện trở lại làm chúng
sinh trong đời ác ngũ trược. Ngũ trược:
Kiếp trược, kiến trược, mạng trược,
chúng sinh trược, phiền não trược.
Bất
úy gian khổ nhập Ta-bà: Ngài không
ngại gian nan khổ nhọc, đến thế giới
Ta-bà để giáo hóa chúng sinh.
Thác
tích vương
cung Thường
Tự Tại:
Vương cung là hoàng cung. Ngài sinh vào hoàng
cung, làm con của quốc vương. Phụ hoàng
của Ngài là vua Thường Tự Tại. Vì
vậy cha tự tại thì con cũng tự tại, đó
gọi là “Thường tự tại”. Như một
người nào đó hay khóc thì con của người
ấy cũng hay khóc, nên người cha thế nào
nhất định sẽ sinh con thế ấy.
Ký
ngụ khách xá Tổ ấn thuyết: Quý
vị không nên nghĩ rằng cái thế giới này
là nơi chúng ta đương ở, mà nên nói
rằng đây là một cái nhà. Lý Thái Bạch
có câu:
Phù ! Thiên địa giả, vạn vật chi
nghịch lữ
Quang âm giả, bách đại chi quá khách
(Ôi,
trời đất là quán trọ của vạn vật
Ngày đêm là khách qua đường của trăm đời)
Câu
trên có nghĩa là khoảng trời đất này
chính là một quán trọ của chúng ta, còn
ngày tháng, hay quang âm là khách qua đường
của trăm đời. Quý vị xem! Đây là câu
đối. Vế trên ‘thiên
địa giả, vạn vật chi nghịch lữ’ và
vế dưới ‘quang
âm giả, bách đại chi quá khách’, hai
vế đối với nhau.
‘Vạn
vật’ thì đối với ‘bách
đại’, ‘nghịch lữ’ thì đối với ‘quá
khách’. Vậy là trời đất này là nơi
lữ khách qua lại. Thế giới mà chúng ta
thường trú đây chỉ là một quán trọ,
chẳng phải thật sự là gia đình của
ta, nên chúng ta không phải là chủ của nó.
Phật
tích thọ ký Ma-noa thị:
Xưa Đức Phật đã thọ ký, sau khi Phật
diệt độ 500 năm có hai vị Đại sĩ
thần lực xuất hiện ở đời, xuất gia
kế thừa dòng Thánh, nối tiếp pháp môn
tâm ấn của chư Tổ, đó là xưa Phật
thọ ký. “Ma-noa thị”, hiện tại
Ma-na-loa con thứ hai của đại vương, chính
là một người trong đó.
Ngã
kim lai phỏng đại đầu-đà:
Tôi cũng là một người trong đó, vì
vậy tôi đến đây tìm người thứ hai!
Đó là một đại đầu đà, một tôn
giả có tinh thần đại tinh tấn.
Thành
tai ngôn dã ngô đương
xả:
Vừa nghe Tổ nói như vậy, vua liền nói:
“Ngài nói rất đúng! Bây giờ trẫm sẽ
giao con trẫm cho Ngài!” “Ngã đương
xả” là tôi phải xả bỏ tình cảm cha
con, giao con tôi cho Ngài!
Quảng
khai pháp diên thiết vô-già: Lúc
ấy, vua Thường Tự Tại nói: “Nhân
dịp con tôi xuất gia, tôi sẽ mở đại
hội vô già, mời tất cả mọi người
trong nước tôi đến dự tiệc để ăn
mừng”. Đại hội vô-già này dành cho
hết thảy mọi người, có tiền hay không
có tiền, tất cả đều được tự do
tham dự, không có sự phân biệt về quan
hệ nhân tình. Vô-già là nghĩa đó.
Cũng
có thể giảng là sau khi nối pháp Tổ Bà-tu-bàn-đầu,
tôn giả Ma-noa-la đã làm cho Phật giáo hưng
thịnh một cách tưng bừng, quang cảnh tượng
như mở một pháp hội vô-già.
Vì vậy, câu này có hai ý trên, không
biết tôi nói đúng hay không? Nếu quý
vị thấy đúng thì nên ghi nhớ; nếu
thấy sai thì hãy quên đi, không hề gì!
Tuyên
Công Thượng
Nhân
giảng
vào ngày 5, tháng 9, năm 1981
Chú
1:
Kệ
truyền pháp của Tổ 21 truyền cho Tổ 22,
thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và
Chỉ Nguyệt Lục ghi:
Bào
huyễn đồng vô ngại
Như
hà bất liễu ngộ
Đạt
pháp tại kỳ trung
Phi
kim diệc phi cổ[3]
Dịch:
Bọt
huyễn đồng vô ngại
Tai
sao không thông suốt
Đắc
pháp ngay trong ấy
Không
nay cũng chẳng xưa.
No comments:
Post a Comment