Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ mười hai: ĐẠI
SĨ MÃ MINH
(Mahasattva
Ashvagosha)
Đại
sĩ, Ba-la-nại
quốc
nhân. Yết thập nhất tổ,
vấn viết: “Ngã dục thức Phật, hà giả
tức
thị?” Tổ viết: “Nhữ dục thức Phật, bất thức
giả thị.”
Đáp viết: “Phật ký bất
thức, yên tri
thị hồ?” Tổ viết: “Ký bất
thức Phật,
yên tri bất
thị?” Đại sĩ khoát nhiên tỉnh ngộ. Tổ vi
thế
độ, nãi viết:
“Thử
nhân tích
vi Tỳ-xá-lợi
quốc vương, vận kỳ
thần
lực, phân thân vi tàm,
quốc nhân
đắc
y. Hậu sinh
trung
Ấn Độ, mã nhân bi luyến, nhân hiệu Mã
Minh. Như Lai ký
viết: ‘Ngô diệt hậu lục bách
niên, đương hữu
hiền
giả, độ nhân vô lượng, kế ngô
truyền hóa’. Kim chính
thị thời.”
Toại phó dĩ Pháp. Hậu đắc Ca-tỳ-ma-la, tức nhập Long
phấn tấn tam
muội, đĩnh thân không trung, như nhật luân tướng,
nhiên hậu
thị
diệt.
Dịch
:
Sư
người nước Ba-la-nại, khi yết kiến Tổ thứ mười một
(Phú-na-dạ-xa), sư hỏi:
-
Con muốn biết Phật, cái gì là Phật?
Tổ đáp:
-
Ông muốn biết Phật, không biết là đúng.
Sư
thưa:
-
Đã không biết Phật, sao biết là đúng?
Tổ
bảo:
-
Đã không biết Phật, sao biết chẳng phải Phật?
Sư
hoát nhiên đại ngộ, Tổ liền cho sư xuống tóc, rồi bảo:
-
Người này, xưa kia là vua nước Tỳ-xá-lợi, đã vận thần
lực phân thân làm nhiều tằm, nên người nước ấy có đủ
áo mặc. Sau đó, Sư sinh vào Trung Ấn Độ, lúc đó những người
có kiếp sống như ngựa đều quyến luyến, nên Sư có hiệu
là Mã Minh. Trước đây Đức Phật huyền ký rằng: “Sau khi
Ta diệt độ 600 năm sẽ
có bậc Thánh độ vô lượng người, tiếp nối Ta truyền đạo
giáo hóa, nay đã đúng thời.”
Tổ
liền phó Pháp cho sư. Về sau, Sư gặp Ca-tỳ-ma-la (Kapimala) và
truyền pháp cho vị này. Truyền pháp xong, Sư liền nhập
tam-muội Long phấn-tấn, rồi vút mình lên không trung như tướng
mặt trời, sau đó thị tịch.
Tán
viết :
Túc
vận thần
lực
Dữ
lỏa
giả y
Hà
giả
thị
Phật
Như
thái tác tê
Nhẫm
ma ngộ khứ
Chánh
Nhãn
nan
khuy
Viễn
thọ ký biệt (莂)
Dịch
:
Xưa
vận thần lực
Cho
áo người trần
Người
nào là Phật
Như
rau làm dưa
Làm
sao biết được
Chánh
Nhãn khó tầm
Xưa
đã thọ ký
Mắt
ở trên mày.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Dũng
mãnh tinh
tấn tu thiện
căn
Vô
lượng
kiếp
lai độ chúng
sinh
Hóa
tàm thổ
ti Bồ
tát nguyện
Nhược
mã bi minh Tổ
sư phong
Truyền
Phật
tâm ấn
hoằng Đại
thừa
Tục
thánh
minh
đăng diễn
viên tông
Tây
thiên Đông độ tề chiêm ngưỡng
Hư
không
pháp giới nhật
đương
trung[2]
(Tuyên Hóa Thượng Nhân tác)
Dịch
:
Dũng
mãnh siêng năng tu pháp lành
Từ
vô lượng kiếp độ quần sanh
Hóa
tằm nhả sợi nguyện Bồ-tát
Ngựa
hý bi thương Tổ tái sanh
Truyền
tâm ấn Phật hoằng chánh pháp
Khơi
đèn tuệ sáng diễn tông thành
Tây
Thiên, Đông Độ đều chiêm ngưỡng
Mặt
nhật không trung hiện rõ rành.
(Tuyên
Hóa Thượng Nhân)
Giảng:
Đại
sĩ, Ba-la-nại quốc
nhân:
Tổ thứ mười hai- Đại sĩ Mã Minh là người nước
Ba-la-nại. Yết
thập nhất tổ,
vấn viết: “Ngã dục thức Phật, hà giả
tức
thị?”:
Sư đến đảnh lễ Tổ thứ mười một, rồi thưa:
“Con muốn biết Phật, cái gì là Phật?
Tổ
viết: “Nhữ dục thức Phật, bất thức
giả thị”:
Tổ thứ mười một nói: “Nếu ông muốn biết Phật, thì không
biết là đúng”. Vì ông không biết! Mà ông muốn biết
Phật, đủ thấy ông chưa biết gì! Vì vậy, Tổ nói ông
muốn biết Phật, thì không biết chính là Phật!
Đáp
viết: “Phật ký bất
thức, yên tri
thị hồ?”:
Bồ- tát Mã Minh thưa: “Đã không biết Phật, làm sao biết
đó là Phật?”
Tổ
viết: “Ký bất
thức Phật,
yên tri bất
thị?”:
Tổ thứ mười một nói: “Đã không biết Phật, làm sao
biết đó là chẳng phải Phật?. Đây
là cơ phong chuyển ngữ[3].
Hai bên qua lại tranh biện, nhằm vào ý nghĩa rằng đã giả
thiết không biết Phật thì làm sao mà biết được không
phải là Phật?
Đại
sĩ khoát nhiên tỉnh ngộ. Tổ vi thế
độ, nãi viết:
Đại sĩ đây chỉ Bồ-tát Mã Minh; khoát
nhiên nghĩa là bừng sáng, thông suốt; tỉnh
ngộ là tỉnh táo không mê muội. Do vậy, Tổ thứ mười
cho Ngài xuống tóc và nói cho nghe về nhân duyên quá khứ
của Ngài.
Thử
nhân tích
vi Tỳ-xá-lợi
quốc vương, vận kỳ
thần
lực, phân thân vi tàm,
quốc nhân
đắc
y:
Tổ bảo rằng vị này trước đây là vua nước Tỳ-xá-lợi.
Nguyên
trong nước này có ba hạng người:
-
Bậc thượng: thân họ có ánh sáng; áo quần, cơm nước tự
nhiên xuất hiện theo ý muốn.
-
Bậc trung: thân họ không có ánh sáng; áo quần, cơm nước
phải kiếm ra mới có.
-
Bậc thấp hèn nhất: họ không có cơm ăn áo mặc, trần
truồng như ngựa. Vì thế, nhà vua thương xót hạng người này,
dùng nguyện lực thần thông biến hóa thân mình thành rất
nhiều tằm; tằm nhã tơ vô số, nên mọi người đều có áo
mặc. Hậu
sinh
trung
Ấn Độ, mã nhân bi luyến, nhân hiệu Mã
Minh:
Nhờ công đức này, nên Ngài được sinh vào nước Trung Ấn
Độ. Lúc Ngài xa nước Tỳ-xá-lợi, những người mang kiếp
sống như ngựa, vốn thọ ân đức của Ngài, cảm thấy trong
lòng vô cùng luyến tiếc nên họ phát lên tiếng kêu bi thương,
bởi vậy mà Ngài có tên hiệu là Mã Minh (chú 1). Đại khái
cũng có thể là Ngài thường kêu lên như ngựa khóc, điều
đó nhằm giáo hóa chúng sanh thuộc loài ngựa, từ đó mà có
tên là Bồ-tát Mã Minh. Thật ra, nguyên ủy của danh hiệu đó
là thế này hay thế kia, điều đó không quan trọng, nghe ra nó
hợp lý là đủ rồi.
Như
Lai ký
viết: ‘Ngô diệt hậu lục bách
niên, đương hữu
hiền
giả, độ nhân vô lượng, kế ngô
truyền hóa’:
Trước đây Đức Phật đã từng thọ ký: “Sau khi Ta diệt
độ sáu trăm năm, sẽ có bậc Thánh nhân xuất hiện ở đời,
độ rất nhiều người. Ngài chính là người được truyền
trao tâm ấn của Đức Phật”.
Kim chính
thị thời,
toại phó dĩ Pháp:
Nay, chính là đúng thời điểm, Tổ nói vậy, rồi sau đó
truyền pháp tâm ấn cho Ngài. (chú 2)
Hậu
đắc Ca-tỳ-ma-la, tức nhập Long phấn tấn tam
muội, đĩnh thân không trung, như nhật luân tướng, nhiên hậu
thị
diệt.:
Về sau Bồ-tát Mã Minh lại truyền pháp cho tôn giả
Ca-tỳ-ma-la (Kapimala). Truyền pháp xong, Sư liền nhập định
tam-muội long phấn tấn, vút mình lên không trung như mặt
trời mọc, rồi viên tịch, nhập Niết-bàn.
Bài
tán:
Túc vận thần
lực, Dữ lỏa
giả y:
Trước kia, lúc Bồ-tát Mã Minh làm vua, Ngài vận dụng thần
lực, cung cấp y phục cho người không có y phục.
Hà
giả
thị
Phật, Như thái tác tê:
Cái gì là Phật? cũng giống như lấy rau làm dưa.
Nhẫm ma ngộ khứ, Chánh
Nhãn nan
khuy:
Thế nào mới có thể khai ngộ? Ông không dễ gì nhìn thấy
được.
Viễn thọ ký biệt, Tài
nhãn thượng my:
Trước đây Đức Phật đã thọ ký, đặt con mắt trên lông
mày. Quý vị thử nói! Ở đây nói lên điều gì?
Bài
kệ:
Dũng mãnh tinh
tấn tu thiện
căn:
Các vị Bồ-tát đều tu căn lành, các vị Tổ cũng như vậy.
Từ
vô lượng kiếp độ quần sanh:
Vô lượng kiếp Sư vừa tu tập căn lành, vừa cứu độ chúng
sinh.
Vô lượng
kiếp
lai độ chúng
sinh:
Ngài biến hóa thành rất nhiều tằm, tằm nhã tơ, cho con người
làm áo quần mặc. Đó là phát nguyện của Bồ- tát.
Nhược mã bi minh Tổ sư phong:
Sư học tiếng ngựa hý để cảm hóa chúng sinh, giúp chúng
sinh tỉnh ngộ, đó là phong cách của Bồ-tát Mã Minh.
Truyền Phật
tâm ấn
hoằng Đại
thừa:
Sư truyền trao tâm ấn của Phật và hoằng dương pháp môn Đại
thừa.
Tục thánh
minh
đăng diễn
viên tông:
Sư tiếp nối đèn sáng của bậc thánh nhân và giảng giải tông
chỉ vi diệu này.
Tây thiên Đông độ
tề chiêm ngưỡng:
Không luận phương Đông hay phương Tây, mọi người đều ngưỡng
vọng Sư. Chữ độ “土”này
nên viết thêm một chấm, đọc là độ “度”.
Hư
không
pháp giới nhật
đương
trung:
Trong pháp giới hư không, Bồ-tát Mã Minh như mặt trời giữa
hư không.
Tôi
không biết tự lượng sức mình, cuối cùng đã giảng kinh
xong, giảng đến truyện
của các Tổ Sư, lại còn giảng những kệ tụng chẳng hay gì
của tôi nữa. Quý vị nghe cũng vất vả lắm, nhưng tôi cũng
vất vả như vậy. Chúng ta chịu khó như vậy là nên, hay làm
biếng là tốt? Lười
biếng quá thì chẳng hay ho gì! Đã là người tu hành thì
phải hết sức tinh tấn, từng giờ, từng khắc, cho nên đối
với chúng ta hôm nay, câu đầu tiên phải là câu “dũng mãnh
tinh tấn”. Bất luận ai, người nào mà dũng mãnh tinh tấn,
thì người đó xứng đáng là đệ tử của Đức Phật.
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng ngày 10, tháng 5, năm 1978)
--------------------------------------------------
Chú
1: Có
một thuyết khác nói tới nguyên ủy về danh hiệu của Bồ-tát
Mã Minh. Toàn bộ văn
bản đó ghi trong tập “Mã Minh Bồ-Tát Truyện”do ngài Cưu-ma-la-thập
dịch, nay xin lược thuật như sau:
Lúc
đầu, Bồ-tát Mã Minh ở Trung Thiên Trúc, xuất gia làm sa-môn
ngoại đạo. Ngài thông minh, biện tài, tinh thông luận nghĩa…
Khi trưởng lão Hiếp tôn giả gặp Ngài ở Bắc Thiên Trúc,
biết Ngài là người có thể hóa độ, vì vậy Tổ hóa độ
Ngài làm đệ tử.
Về
sau, Ngài hoằng dương Phật pháp ở Trung Thiên Trúc, bốn chúng
đều kính trọng bội phục. Sau này, nước Tiểu Nhục Chi ở
Bắc Thiên Trúc tấn công và bao vây Trung Thiên Trúc. Vua nước
Trung Thiên Trúc phái sứ giả
cầu hòa, đối phương yêu cầu dâng ba ức vàng ròng mới rút
binh và ngừng chiến sự. Vua nói: “Nước ta ngay cả một
ức vàng ròng cũng không có, lấy đâu ra ba ức chứ?” Đối
phương trả lời: “Nước Ngài có hai bảo bối lớn, đó là
bình bát của Đức Phật và Tỳ-kheo giỏi biện tài (tức
chỉ Bồ-tát Mã Minh). Nếu Đại vương dâng cho chúng tôi hai
thứ đó thì đã bằng hai ức vàng ròng rồi”.
Vua thấy không thể nào trao cho đối phương hai bảo
bối này được, nhưng do Tỳ-kheo Mã Minh nói rõ đại nghĩa
cho vua nghe, nên vua đành nhận lời.
Lúc
vua Nhục Chi về đến nước mình, các đại thần tâu: “Tâu
Đại vương! Đại vương thỉnh bình bát của Đức Phật về
thì quả là thích đáng, còn như Tỳ-kheo thì khắp thiên hạ
đều có, nay vị này lại đánh giá bằng cả một ức vàng ròng,
thì chẳng phải là một sự quá đáng hay sao?”
Thật
ra vua nước Nhục Chi vốn biết rõ vị Tỳ-kheo này tài trí
cao minh tuyệt vời, có biện tài thuyết pháp cảm ứng đến
cả các loài chúng sinh khác. Bởi
vậy vua thỉnh Tỳ-kheo thuyết pháp, ai nấy nghe thảy đều
được khai ngộ. Trong lúc ấy, nhà vua cho người cột bảy
con ngựa đói ngay trước hội trường, sai mang cỏ đến cho
chúng ăn, vậy mà tất cả mấy con đó đều nhỏ nước
mắt, chẳng một con nào thèm ăn cỏ. Từ đó mọi người
mới hay vị này chẳng phải là một Tỳ-kheo bình thường, vì
ngay cả ngựa cũng hiểu được âm thanh thuyết pháp của Ngài,
nên gọi Ngài là Bồ-tát Mã Minh.
Chú
2:
Kệ
truyền pháp của Tổ thứ mười một phó chúc cho Tổ thứ mười
hai thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt
Lục ghi:
Mê
ngộ như ẩn hiển
Minh
ám bất tương ly
Kim
phó ẩn hiển pháp
Phi
nhất diệc phi nhị[4]
Dịch:
Mê
ngộ như ẩn hiện
Sáng
tối không lìa nhau
Nay
phó pháp ẩn hiện
Không
phải một chẳng hai.
[1]宿運神力 與裸者衣 何者是佛
如菜作齏
恁麼悟去 正眼難窺 遠受記莂 栽眼上眉
恁麼悟去 正眼難窺 遠受記莂 栽眼上眉
[2]勇猛精進修善根 無量劫來度眾生
化蠶吐絲菩薩願 若馬悲鳴祖師風
傳佛心印弘大乘 續聖明燈演圓宗
西天東土齊瞻仰 虛空法界日當中
化蠶吐絲菩薩願 若馬悲鳴祖師風
傳佛心印弘大乘 續聖明燈演圓宗
西天東土齊瞻仰 虛空法界日當中
[3]
Chuyển
ngữ
轉語:
lời
lẽ sắc bén tùy cơ nghi mà chuyển biến một cách tự do
tự tại. Lúc thiền giả mê lầm không hiểu, tiến thoái
lưỡng nan, vị sư gia tức thì xoay chuyển cơ phong hạ
ngay chuyển ngữ để giúp hành giả khai ngộ.
今付隱顯法 非一亦非二
No comments:
Post a Comment