Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ thứ 27: Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La (Prajnatara)
Nhị Thập Thất Tổ Bát-Nhã-Đa-La Tôn giả
Tôn giả, đông Ấn Độ nhân. Nhân quốc vương dữ Bất-Như-Mật-Đa
Tổ (chú 1), đồng xa nhi xuất, tôn giả kê thủ ư tiền, Tổ viết:
“Nhữ ức vãng sự phủ?” Đáp viết: “Ngã niệm viễn kiếp trung,
dữ sư đồng cư, sư diễn Ma-ha Bát-nhã, ngã chuyển thậm thâm
tu-đa-la. Kim nhật chi sự, cái khế tích nhân.” Tổ nãi vị
vương viết: “Thử tử phi tha, tức Đại Thế Chí bồ tát thị dã.”
Hậu nam Ấn Độ quốc vương, nhất nhật thỉnh tôn giả, trai thứ,
vương vấn: “Chư nhân tận chuyển kinh, duy sư vi thậm bất
chuyển.” Tôn giả viết: “Bần đạo xuất tức bất tùy chúng duyên,
nhập tức bất cư ấm giới. Thường chuyển như thị kinh, bách
thiên vạn ức quyển, phi đản nhất quyển lưỡng quyển.” Hậu
chuyển phó Bồ-Đề-Đạt-Ma, lưỡng thủ các phóng quang minh, hóa
hỏa tự phần.
Tôn
giả là người miền đông xứ Ấn-Độ. Nhân khi quốc vương cùng Tổ
Bất-Như-Mật-Đa ngồi chung xe đi ra ngoài, tôn giả tới
phía trước vái lạy. Tổ nói: “Ngươi nhớ việc xưa chăng?” Tôn
giả đáp: “Con nhớ vào kiếp xa xưa, con cùng thầy ở chung một
nơi, thầy giảng Ma-ha Bát-nhã, con giảng tu-đa-la thậm thâm,
nay gặp đây chính là hợp với duyên xưa đó.” Tổ nói với vua:
“Đồng tử này không phải ai khác mà là hóa thân của bồ tát
Đại Thế Chí vậy.” Về sau, vua xứ nam Ấn Độ thỉnh tôn giả
cúng dường. Khi thọ trai xong, nhà vua hỏi Ngài: “Mọi người
đều tụng kinh, sao riêng một mình thầy là không tụng kinh
vậy?” Tôn giả nói: “Bần đạo thở ra không tùy theo các duyên,
hít vào thì chẳng ở trong ấm giới, thường là tụng niệm kinh
này, trăm ngàn vạn ức quyển, chẳng phải chỉ một hay hai
quyển.” Về sau Tổ truyền pháp lại cho Bồ-Đề-Đạt-Ma, hai tay
phóng hào quang, hóa lửa tự thiêu mình.
Tán viết:
Viễn kiếp đồng cư
Đương diện tác thiết
Thị Thế Chí lai
Bỉ
thử nhiêu thiệt
Trửu hậu huyền phù
Thông minh khuếch triệt
Chuyển như thị kinh
Dương xuân bạch tuyết[1]
Dịch:
Kiếp
trước đồng cư
Tiết
lộ mọi người
Hóa
thân Thế Chí
Hai
bên nhiều lời
Đạo
bùa đeo tay
Thông
minh sáng láng
Chuyển loại kinh đó
Tuyết
trắng mùa xuân.
Hoặc thuyết kệ viết:
(Tuyên công Thượng Nhân tác)
Hữu hà nhân duyên kim tương ngộ
Viễn kiếp đồng trú hữu trùng phùng
Sư
diễn Ma ha thâm Bát nhã
Dư
chuyển Diệu Pháp Liên Hoa kinh
Vương thỉnh ứng cúng trai thứ tất
Tăng vị hồi hướng chúc khang bình
Hô
hấp bất cư ấm xứ giới
Giải thoát tự tại mãn thái hư[2]
Dịch:
Dám
hỏi duyên nào nay gặp gỡ
Kiếp
xưa cùng trú lại tao phùng
Thâm
sâu Bát Nhã thầy chuyên giảng
Con
thuyết Liên Hoa Diệu Pháp kinh
Bầy
tiệc trai tăng vua cung dưỡng
Trai
xong hồi hướng cảnh thanh bình
Hít
thở xa lìa mười tám giới
An
nhiên tự tại khắp mười phương
Thượng nhân Tuyên hóa soạn
Giảng thoại:
Tôn giả, đông Ấn Độ nhân. Nhân quốc vương dữ Bất-Như-Mật-Đa Tổ,
đồng xa nhi xuất, tôn giả kê thủ ư tiền:
Vị Tổ sư đời thứ 27 giòng Thiền Tây thiên là tôn giả
Bát-Nhã-Đa-La. Ngài người miền đông xứ Ấn-Độ. Một hôm, vị
vua ở nơi này cùng với Tổ thứ 26 là Bất-Như-Mật-Đa ngồi
chung xe đi ra ngoài thành. Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La lúc bấy
giờ hãy còn là một đồng tử, đương đi hành khất trên đường,
thấy vậy đến trước xe hỏi han Tổ.
Tổ
viết: “Nhữ ức vãng sự phủ?”:
Tổ hỏi tôn giả Bát-Nhã-Đa-La : “Ngươi có nhớ việc xưa chăng?”
Đáp viết: “Ngã niệm viễn kiếp trung, dữ sư đồng cư, sư diễn
Ma-ha Bát-nhã, ngã chuyển thậm thâm tu-đa-la. Kim nhật chi
sự, cái khế tích nhân.”: Tôn
giả Bát-Nhã-Đa-La đáp lại như sau: “Con còn nhớ lúc xưa,
thuở ấy rất xa xưa, con cùng thầy ở chung một nơi. Hồi đó
thầy giảng kinh Đại Bát-Nhã, còn con thì tụng niệm, nghiên
cứu và giảng thuyết kinh Tu-đa-la thậm thâm, tức kinh điển
về Đại thừa. Hôm nay, con gặp thầy ở đây chính là hợp với
nhân duyên xưa đó!
Tổ
nãi vị vương viết: “Thử tử phi tha, tức Đại Thế Chí bồ tát
thị dã.”: Tổ nói với nhà vua:
“Đồng tử này không là ai khác mà là hóa thân của bồ tát Đại
Thế Chí, một trong ba vị thánh ở phương tây (Chú 2).
Hậu nam Ấn Độ quốc vương, nhất nhật thỉnh tôn giả, trai thứ,
vương vấn: “Chư nhân tận chuyển kinh, duy sư vi thậm bất
chuyển.”: Một hôm nhà vua
thỉnh tôn giả Bát-Nhã-Đa-La về cung cúng dường trai tăng.
Thọ trai xong, vua hỏi Ngài: “Hiện nay chúng tôi thấy hết
thảy mọi người đều thuyết pháp, tụng kinh, sao chỉ riêng một
mình tôn giả là không tụng kinh vậy?”
Tôn giả viết: “Bần đạo xuất tức bất tùy chúng duyên…:
Ngài nói: “Bần đạo hít thở, nhưng hơi thở ra không tùy theo
các duyên… có nghĩa là vào giòng đời mà không nhiễm thói đời,
không hòa theo trần tục. ..nhập tức bất cư ấm giới:
Khi thở vào thì không ở trong 5 ấm, tức sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, cũng không ở trong mười tám giới… thường
chuyển như thị kinh, bách thiên vạn ức quyển: Bần đạo
thường niệm loại kinh này, niệm đến trăm ngàn vạn ức quyển;
…phi đản nhất quyển lưỡng quyển: chớ không phải là
chấp vào công phu niệm một hay hai quyển kinh đâu! Từng giờ
từng khắc, không lúc nào là chẳng niệm kinh.”
Về
mười tám giới thì có 6 căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý; 6 trần
là sắc thanh hương vị xúc pháp; 6 thức là nhãn thức, nhĩ
thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Hậu chuyển phó Bồ-Đề-Đạt-Ma, lưỡng thủ các phóng quang minh,
hóa hỏa tự phần: Về sau, tôn
giả Bát-Nhã-Đa-La truyền diệu pháp tâm ấn cho tôn giả
Bồ-Đề-Đạt-Ma. Kế đó hai tay Ngài cùng phóng hào quang, biến
thành lửa tam muội, lấy lửa đó tự thiêu thân mình.
Tán:
Viễn kiếp đồng cư, Đương diện tác thiết:
Vào một kiếp xa xưa hai Ngài cùng ở chung một nơi. “Đương
diện tác thiết” có nghĩa là trước mặt mọi người, đem
những câu chuyện kín ra nói, như là nói lén, tiết lộ thiên
cơ.
Thị Thế Chí lai, Bỉ thử nhiêu thiệt:
Nói việc bồ tát Đại Thế Chí hóa thân. Chuyện này mang ra nói
thì kể như là quá nhiều lời – nhiêu thiệt. Cả hai bên,
Tổ Bất-Như-Mật-Đa và tôn giả Bát-Nhã-Đa-La, đều nhiều lời.
Trửu hậu huyền phù, Thông minh khuếch triệt:
Phía sau khuỷu tay có treo một đạo bùa, bùa này chính là
mệnh lệnh, trao gửi một quyền lực và, như trên đã nói tới,
đó là trách nhiệm phải diễn xuất một tấn tuồng, tuồng truyền
tâm ấn Phật. Tư chất của tôn giả thì “thông minh khuếch
triệt”, vậy có nghĩa là thông suốt, sáng láng, có một trí
huệ tuyệt vời.
Chuyển như thị kinh, Dương xuân bạch tuyết:
Loại kinh tụng niệm ở đây là chân kinh, kinh không có chữ,
giống như tuyết trắng mùa xuân, trắng ngần như vậy, khi gặp
thời tiết xuân đến sẽ tan đi. Vị Tổ sư đây không theo hoàn
cảnh, không tùy theo các thứ duyên, bởi vậy Ngài không giống
như mọi người khác, siêu việt tất cả, không ở trong sự cấu
tạo của ngũ hành, một mình đứng riêng, vượt lên cao vút!
Lại có
kệ rằng:
Bài
kệ tám câu sau đây cũng chỉ là tóm tắt các đoạn văn và bài
tán ở phần trên rồi nhắc lại các ý chính. Gọi là kệ tụng
chính là lược thuật đại ý những gì đã kể qua; sau đoạn “trường
hàng” thì đến phần “trùng tụng”, nội dung của 2
phần này tương tự như nhau, có điều “trùng tụng” thì được
thâu gọn lại.
Hữu hà nhân duyên kim tương ngộ:
“Vì nhân duyên gì mà ngày hôm nay chúng ta gặp nhau, ngươi
có nhớ chăng?” Đó là câu mà Tổ Bất-Như-Mật-Đa hỏi tôn giả
Bát-Nhã-Đa-La.
Viễn kiếp đồng trú hữu trùng phùng:
Vào một kiếp xa xưa chúng ta đã từng ở chung, đồng tham
thiền với nhau, cùng nhau nghiên cứu Phật pháp, đến nay
chúng ta lại gặp nhau ở đây.
Sư
diễn Ma ha thâm Bát nhã:
Hồi đó Tổ bất-Như-Mật-Đa diễn giảng cho đại chúng
kinh “Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Dư
chuyển Diệu Pháp Liên Hoa kinh:
Con thì thuyết giảng tu-đa-la thâm sâu – tôn giả
Bát-Nhã-Đa-La kể lại với Tổ Bất-Như-Mật-Đa.
Tu-đa-la thâm sâu tức là chỉ các kinh điển đại
thừa và, trong số các kinh đại thừa thì kinh “Diệu Pháp Liên
Hoa” là tột cùng, là vua của các kinh; tôn giả nói trong
thời gian này Ngài chuyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
có nghĩa là niệm Diệu Pháp Liên Hoa, bái lạy Diệu
Pháp Liên Hoa, lễ bái, cúng dàng, diễn thuyết kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Vương thỉnh ứng cúng trai thứ tất:
Một hôm quốc vương xứ Nam Ấn thỉnh tôn giả Bát-Nhã-Đa-La về
cung cúng dường trai tăng.
Tăng vị hồi hướng chúc khang bình:
Khi đã thọ trai xong, Ngài hồi hướng, đại khái như niệm chú
“cung dưỡng” và tất cả mọi người đều niệm “hồi
hướng chú, cung dưỡng chú”, tỷ như mấy câu:
Nhược vị lạc cố thí
Hậu tất đắc an lạc
Phạn thực dĩ ngật
Đương nguyện chúng sanh
Sở
tác dĩ biện
Cụ
chư Phật pháp
Cùng
là nguyện cầu cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình, như
trên câu kệ nói “chúc khang bình”.
Hô
hấp bất cư ấm xứ giới: Nhà vua
thấy riêng một mình tôn giả là không tụng niệm, không mở
miệng nói năng gì, bèn hỏi: “Mọi người đều tụng kinh, riêng
thầy không tụng, vậy thầy làm gì? Hỏi như vậy thì nhà vua
này có thể kể như là quá thực thà, chẳng biết khách sáo,
giống như mấy người Mỹ bên này vậy! Chân tâm chính là đạo
tràng! Đáp lại nhà vua, tôn giả nói rằng sự hít thở của Ngài
không giống như mọi người khác. Ngài có thể chẳng thở ra
cũng chẳng thở vào, vượt ngoài ba cõi, không nằm trong sự
cấu tạo của ngũ hành! Có thể hít thở, mà cũng có thể không
hít thở. Bởi vậy khi thở ra thì không tùy theo các duyên,
khi hít vào không ở trong ấm, xứ và giới. Ấm là nói về
ngũ ấm; xứ thì chỉ thập nhị xứ, gồm có 6 căn và 6
trần; giới thì có tất cả là 18 giới, gồm 6 căn, 6 trần và 6
thức.
Giải thoát tự tại mãn thái hư:
Vì lý do Ngài không dính vào một chỗ nào trong thập nhị xứ
nên mới gọi là giải thoát, là tự tại, pháp tánh thì bao trùm
khắp hư không. Chẳng đến chẳng đi, chẳng nhơ chẳng sạch,
chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, quét sạch mọi
pháp, lìa hết mọi tướng, chẳng còn chấp vào một tướng gì nữa!
Thượng nhân
Tuyên Hóa thuyết giảng ngày 13 tháng 9 năm 1981
Chú 1. Bản cổ ghi “Tổ Bà-Tư”
là không đúng. Theo sự tra cứu qua các sách Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt Lục và Truyền Pháp
Chánh Tông Ký thì các tài liệu đều ghi rằng Tổ thứ 26 là
tôn giả Bất-Như-Mật-Đa.
Chú 2. Về câu chuyện gặp gỡ và
truyền pháp giữa hai vị Tổ sư đời thứ 26 và 27, Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi rõ như sau : . . .Tôn giả
Bất-Như-Mật-Đa nói với vua: “Trong nước có thánh nhân, người
này sẽ kế thừa tôi.” Số là khi đó có một đồng tử, con dòng
Bà-la-môn, 20 tuổi, cha mẹ mất sớm, không ai biết tên là gì,
tự xưng tên là Anh-Lạc, nên mọi người quen gọi là “đồng tử
Anh-Lạc”, thường thấy đi hành khất qua xóm làng, tỷ như kiểu
Thường bất Khinh vậy. Có người hỏi: “Sao đi nhanh vậy?” thì
đồng tử trả lời: “Sao các người đi chậm vậy?” Có người hỏi:
“Ngươi họ gì?” thì đồng tử trả lời: “Tôi cùng một họ với các
người.” Cứ như vậy chẳng ai hiểu duyên cớ gì.
Về sau, nhân dịp tôn giả ngồi chung xe với vua đi
ra ngoài thành, đồng tử Anh Lạc đi tới lễ lạy trước tôn giả.
Ngài bèn hỏi: “Ngươi nhớ chuyện xưa chăng?” Anh Lạc đáp:
“Con nhớ vào thưở xa xưa con cùng tôn giả ở chung một nơi.
Ngài thì diễn giảng Ma-Ha Bát Nhã, con thì chuyển kinh Tu Đa
La thâm sâu. Sự tình ngày hôm nay chính là hợp với nhân
duyên xưa.” Tôn giả lại nói với vua: “Đồng tử này không phải
ai khác mà là hóa thân của bồ tát Đại thế Chí. Sau vị thánh
này sẽ có hai vị nữa, một vị giáo hóa vùng Nam Ấn Độ, một vị
thì có duyên với xứ “Chấn Đán” (tức Trung Hoa), trong vòng 4
hay 5 năm sau thì lại sẽ trở về đây. Cũng do sự tích về nhân
duyên này mà có tên “Bát-Nhã-Đa-La” và kệ truyền pháp như
sau:
Chân
tánh tâm địa tạng
Vô
đầu diệc vô vĩ
Ứng
duyên nhi hóa vật
Phương tiện hô vi trí[3]
Dịch:
Chân tánh là tạng tâm
Không đầu cũng không đuôi
Theo duyên mà hóa vật
Phương tiện gọi là trí
No comments:
Post a Comment