Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ thứ mười một: TÔN GIẢ PHÚ-NA-DẠ-XA
Tôn
giả, Hoa Thị quốc nhân. Nhân Thập
Tổ hành
hóa chí
kỳ quốc, khế nhất thọ
hạ. Tôn giả thích
lai, hợp chưởng
tiền
lập. Tổ vấn: “Nhữ tùng hà
lai?” Đáp
viết: “Ngã tâm
phi vãng.”
Tổ viết: “Nhữ hà
xứ trụ?”
Đáp viết: “Ngã tâm
phi chỉ.”
Tổ viết: “Nhữ bất
định da?”
Đáp viết: “Chư Phật diệc
nhiên.” Tổ
viết: “Nhữ phi chư Phật.” Đáp viết: “Chư Phật diệc
phi.” Tổ nhân thuyết kệ viết: “Thử
địa biến
kim
sắc, dự tri
hữu thánh chí; đương tọa Bồ-đề
thọ, giác hoa
nhi thành dĩ.” Tổ tri kỳ ý, tức vi
thế
lạc thọ cụ, nhân phó dĩ Đại
Pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí Ba-la-nại
quốc, chuyển phó pháp ư Mã
Minh, tức hiện
thần biến, trạm nhiên
viên tịch. Chúng kiến
bảo
tháp, bí kỳ
toàn
thân.
Dịch
:
Tôn
giả người nước Hoa Thị. Nhân lúc Tổ thứ mười (Hiếp Tôn
giả) du hóa đến nước này, đang nghỉ dưới bóng cây, Ngài
đến chắp tay đứng trước Tổ. Tổ hỏi:
-
Ông từ đâu đến?
Tôn
giả thưa:
-
Dạ! Tâm con chẳng phải đến.
-
Ông trụ ở đâu?
-
Tâm con chẳng dừng.
-
Ông chẳng định sao?
-
Chư Phật cũng vậy.
-
Ông chẳng phải Chư Phật.
-
Chư Phật cũng chẳng có.
Nhân
đó Tổ nói kệ:
Thử
địa biến kim
sắc,
Dự tri hữu thánh chí;
Đương
tọa Bồ-đề
thọ,
Giác hoa nhi thành dĩ[1].
Dịch:
Đất
này đổi màu vàng
Dự
biết có Thánh sang
Cội
Bồ-đề
an tọa
Hoa
giác nở hoàn toàn.
Tổ
biết ý tôn
giả liền cho Ngài xuống tóc, thọ giới Cụ
túc và truyền trao Đại Pháp. Đắc pháp rồi, Tôn giả du hóa
đến nước Ba-la-nại và truyền chánh pháp cho Bồ-tát Mã
Minh. Ngay sau đó, Tôn giả hiện thần biến, rồi thản nhiên
thị tịch. Đồ chúng xây tháp báu tôn trí nhục thân Ngài.
Tán
viết :
Chư
Phật diệc phi
Thánh
phàm hà lập?
Phu
tọa thọ
hạ
Địa
hiện
kim sắc
Đàm
chân thật
nghĩa
Nhân
thiên võng
trắc
Giác
hoa nhất khai
Dịch
:
Chư
Phật vốn không
Thánh
phàm nào có
Dưới
cây trải tòa
Đất
hiện vàng chói
Luận
tỏ nghĩa chân
Trời
người không lường
Hoa
giác vừa nở
Trời
tuệ treo cao.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Bổn
vô lai
vãng Diệu
giác sơn
Ly
chư chỉ tướng
vạn Phật
truyền
Địa hiện
kim sắc cát
tường triệu
Thiên
vũ bảo hoa thụy
ứng tiên
Thánh
nhân giáng thế hóa
quần phẩm
Thần
long ủng vệ dự cảm triệu
Chư
Phật
dĩ phi hà sở
hữu?
Như
thị như thị mạc
thanh cao[3]
(Tuyên
Công Thượng Nhân tác)
Dịch
:
Diệu
giác xưa nay chẳng động dao
Xa
lìa các tướng vạn Phật trao
Sắc
vàng hiện đất điềm lành ứng
Hoa
báu tuôn rơi cảm tướng mầu
Thánh
nhân giáng thế vì muôn loại
Long
thần hộ vệ ứng duyên mau
Chư
Phật vốn không làm sao có
Như
vậy như vậy chớ truyền rao.
(Tuyên
Công Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn
giả, Hoa Thị quốc nhân:
Tên của Tôn giả này là Phú-na-dạ-xa
(Punyayasashas).
Ấn Độ có một nước tên Hoa Thị
(Patna),
Ngài là người nước đó.
Nhân Thập
Tổ hành
hóa chí
kỳ quốc:
Tổ thứ mười chính là Hiếp tôn giả, tức là vị tôn giả
hông không dính chiếu. Ngài đến nước này, gọi là nước
Hoa Thị. Tôi chưa từng đến nước Hoa Thị, chẳng hiểu quý
vị đã đến chỗ này chưa? Nói chung đây là một địa danh
cổ xưa tại Ấn độ, biết hay không chẳng thành vấn đề.
Ta chỉ cần nhớ Ngài không phải người Trung Hoa là đủ
rồi, đúng không? Ngài là người Ấn Độ. Nếu bây giờ quý
vị cứ nhất định bảo nước đó là nước Hoa Thị thì
thử hỏi ngày nay nơi đó có địa danh là gì? Vậy có phải
là thêm phiền phức không? Mất công khảo cứu theo lối đó
chỉ là vô ích! Khảo cổ, khảo kim, khảo tới, khảo lui,
khảo tới chết! Đúng vậy không? Khảo chết, kiếp sau lại
khảo, càng khảo càng mù mịt!
Khế nhất thọ
hạ:
Ngài đang nghỉ dưới bóng cây. Vì hông Ngài không dính
chiếu, nên cũng không cần vào trong nhà mà chỉ ở bên ngoài.
Mỗi ngày Ngài chỉ ăn một bữa, đêm nghỉ bên gốc cây,
giống như chúng ta bây giờ. Lúc ấy, Ngài dùng tay phải chỉ
xuống đất bảo đồ chúng: “Đất này hóa thành màu vàng
sẽ có thánh nhân xuất hiện”. Ngài vừa nói xong, mặt đất
lập tức biến thành màu vàng.
Tôn
giả thích
lai, hợp chưởng
tiền
lập:
Tôn giả này chính là Tổ thứ mười một- Phú-na-dạ-xa, lúc
ấy cũng vừa đi đến chỗ gốc cây. Khi thấy Hiếp tôn giả
đương tĩnh tọa, Ngài bèn bước tới, đối diện với Hiếp
tôn giả rồi đứng chấp tay, bất động, y như một khúc
gỗ. Ồ! Đây chẳng phải là ý nói xấu vị Tổ sư đâu, có
điều dáng điệu của Ngài lúc đó là như vậy!
(Phần
sau này bản cảo thất lạc, nên các đệ tử bổ sung phần
giảng bạch thoại).
Tổ
vấn: “Nhữ tùng hà
lai?”:
Tổ
thứ mười hỏi Ngài: “Ông từ nơi nào đến?”
Đáp
viết: “Ngã tâm phi vãng.”:
Ngài thưa: “Dạ! Tâm con không từ chỗ nào đến?”
Tổ viết: “Nhữ hà xứ trụ?”:
Tổ
thứ mười lại hỏi Ngài: “Ông trú ở nơi nào?”
Đáp
viết: “Ngã tâm phi chỉ.”:
Ngài
liền thưa: “Tâm con không có trụ ở chỗ nào. Chữ
“dừng” - dịch nghĩa của chữ chỉ “止”-
chính là chữ trụ “住”
của kinh Kim Cang trong câu: “Ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Trụ cũng chính là chấp trước
“執
著”.
Hai vị này đã dùng cơ phong[4]
đối đáp qua lại với nhau.
Tổ
viết: “Nhữ bất
định da?”:
Tổ
thứ mười nói: “Ông không có một nơi cố định sao?”
Đáp
viết: “
Chư
Phật diệc nhiên.”:
Ngài
thưa: “Chư Phật cũng vậy!”
Tổ
viết: “Nhữ phi chư Phật.”:
Tổ
thứ mười nói: “Ông không phải là chư Phật!” Ý nói Ngài
chưa thành Phật!
Đáp
viết: “
Chư
Phật diệc phi.”:
Ngài
lại thưa: “ Chư Phật đều không có!” Quý vị thấy đó!
Tổ nhân thuyết kệ
viết:
Nghe vậy, Tổ thứ mười biết Ngài là bậc pháp khí, liền nói
kệ: “Thử
địa biến
kim
sắc, dự tri
hữu thánh chí:
Đất ở đây biến thành màu vàng, ta biết có thánh nhân
xuất hiện;
đương
tọa Bồ-đề
thọ, giác hoa
nhi thành dĩ.”:
Này
hiền giả! Chỗ của ông phải là cội Bồ-đề, ông sẽ giác
ngộ thành đạo!
Phú-na-dạ-xa
liền đáp kệ:
Sư
tọa kim
sắc địa,
Thường
thuyết chân thật
nghĩa
Hồi
quang nhi chiếu ngã,
Dịch:
Thầy
trụ đất vàng ròng
Thường
nói nghĩa chân thật
Ánh
sáng chiếu thân con
Nhập
vào tam-ma-đế[6]
“Sư
tọa kim
sắc địa,
Thường thuyết chân thật
nghĩa”,
Sư phụ, Ngài trụ trên đất vàng ròng, những lời Ngài nói
ra đều chân thật, lời nói đi đôi với việc làm. “Hồi
quang nhi chiếu ngã, Linh nhập tam-ma-đề”,
xin Ngài dạy con phương pháp hồi quang phản chiếu, khiến con
đạt đến chánh
định chánh
thọ[7].
Tổ tri kỳ ý, tức vi thế
lạc thọ cụ:
Tổ thứ mười biết được tâm ý của tôn
giả muốn xuất gia học đạo, liền cho Ngài xuống tóc,
truyền giới Cụ
túc. nhân
phó dĩ Đại
Pháp:
Tổ truyền đại pháp cho Ngài. Đại Pháp là diệu pháp dùng
tâm ấn tâm, không lập văn tự. Đại Pháp chính là “cái đó”!
Quý vị mà hiểu được “cái đó” tức là biết tu đạo!
Đồng thời Tổ đọc cho Ngài bài kệ như sau:
Chân
thể tự
nhiên chân
Nhân
chân thuyết hữu
lý
Lĩnh
đắc chân chân pháp
Dịch:
Thể
chân tự nhiên chân
Nhờ
chân nói có lý
Lãnh
hội được pháp chân
Không
đi cũng không dừng
Tôn
giả đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí
Ba-la-nại
quốc, chuyển phó pháp ư Mã
Minh:
Tôn giả chính là Tổ thứ mười một. Sau khi thọ pháp và
được ấn chứng, Ngài đến nước Ba-la-nại hoằng pháp,
rồi truyền pháp cho Bồ-tát Mã Minh
(Ashvaghosha).
Tức hiện
thần biến, trạm nhiên
viên tịch:
Ngài liền hiện mười tám thứ thần biến của bậc A-la-hán,
rồi thản nhiên thị tịch. Ngài là người rất trong sáng, không
một chút nhiễm ô, sạch như gương, trong như nước, có thể
nhìn thấu tận đáy. Chúng
kiến
bảo
tháp, bí kỳ
toàn
thân:
Mọi người xây
tháp, an táng toàn thân Ngài và thành kính cúng dường.
Bài
tán
Chư
Phật diệc phi, Thánh phàm hà lập?:
Chư Phật đều không, vậy còn có gì
nữa ?
Pháp
giới vô lượng, nhiều như số cát sông Hằng mà cũng chỉ là
những bọt
nước trong biển lớn; âm và dương chỉ như tia chớp; không
có thánh, không có phàm, cũng không có con người, tất cả đều
không có.
Phu tọa thọ
hạ, Địa hiện
kim sắc:
Hiếp tôn giả ngồi dưới cây, tay Ngài chỉ xuống đất, lúc
ấy mặt đất biến thành màu vàng, giống
như trong kinh Pháp Hoa, có chỗ nói tới lúc Phật thị hiện
‘tam
biến thổ điền’[9],
tất cả đại địa lúc đó đều biến thành mầu vàng.
Đàm
chân thật
nghĩa, Nhân thiên võng
trắc:
Những lời Ngài bàn luận đều chân thật, người và chư thiên
đều nghe nhưng không hiểu được.
Giác hoa nhất khai, Cao
huyền tuệ nhật:
Tổ thứ mười một ngộ đạo, trí tuệ của Ngài như mặt
trời mới mọc giữa không trung.
(Chúng
đệ tử bổ sung phần
giảng bạch thoại đến chỗ này).
Bài
kệ:
Bổn vô lai
vãng Diệu
giác sơn:
Cái gì mà vốn không đến không đi? Đó là núi Diệu
giác. Núi đó nó ở đâu? Quý vị thử nói coi!
Ly chư
chỉ tướng
vạn Phật
truyền:
Không trụ, không dừng, không có chỗ trụ. Đó là tâm pháp
của muôn vạn chư Phật truyền trao. Vì vậy, tâm pháp
truyền thừa của Vạn Phật Thánh Thành chính là “không
có chỗ trụ”!
Địa hiện
kim sắc cát
tường triệu:
Điềm lành này báo hiệu có thánh
nhân xuất hiện, vậy chúng ta phải dọn dẹp nơi ấy cho
sạch sẽ. Bình thường chúng ta trải thảm đỏ để biểu
lộ sự cung kính, như trải thảm đỏ từ sân bay thẳng đến
phòng tiếp tân chẳng hạn, một lễ nghi mỗi khi nghênh đón
quốc vương, đại thần. Nay, đất biến thành màu vàng như
thế, tức là biểu lộ sự vui mừng nghênh đón một vị thánh
nhân, bởi vậy mới gọi là “cát
tường triệu” (điềm
lành).
Thiên
vũ bảo hoa thụy
ứng tiên:
Trên trời cũng mưa hoa báu
rơi lả tả.
Thánh
nhân giáng thế hóa
quần phẩm:
Thánh nhân này ra đời giáo hóa hết thảy chúng sinh, vì vậy
mới có quang cảnh như vậy.
Thần
long ủng vệ dự cảm triệu:
Đó là một biểu hiện của thần và rồng đến ủng hộ thánh
nhân này. Tiên đoán tình hình này sớm có cảm ứng đạo
giao[10].
Chư Phật
dĩ phi hà sở
hữu?:
Chư Phật đều không, vậy thì có gì?
Như
thị như thị mạc
thanh cao:
“Chính là như vậy! Chính là như vậy! Như vậy là đúng
rồi! Mọi người đều dùng tâm ấn tâm, hiểu nhau không nói
thành lời, việc gì cũng không cần nói ra.
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng ngày 03, tháng 05, năm 1978)
[2]
諸佛亦非 聖凡何立 敷坐樹下 地現金色
談真實義 人天罔測 覺花一開 高懸慧日
談真實義 人天罔測 覺花一開 高懸慧日
[3]
本無來往妙覺山 離諸止相萬佛傳
地現金色吉祥兆 天雨寶華瑞應先
聖人降世化群品 神龍擁衛預感召
諸佛已非何所有 如是如是莫聲高
地現金色吉祥兆 天雨寶華瑞應先
聖人降世化群品 神龍擁衛預感召
諸佛已非何所有 如是如是莫聲高
[4]
Cơ phong 機鋒
: chỗ vi diệu sâu kín, sắc sảo của thiền cơ. Tính cách
sắc bén của thiền sư khi tiếp hoá người học, hoặc
của thiền tăng khi khảo nghiệm lẫn nhau. Đặc điểm
của nó là: thường dùng ý sâu sắc mà không để lại
dấu vết.
[6]
Tam-ma-đế
三摩諦
(Cg:
tam-ma-địa,; Cd: tam-muội): thiền định.
[7]
Chính định chính thụ
正定正受:
tức
chỉ cho (trạng thái) thiền định.
[9]
Xem Phẩm “Kiến
Bảo Tháp” trong Kinh Pháp Hoa quyển 4.
No comments:
Post a Comment