Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
|
|
Nhị
Tổ: Tôn Giả A-Nan-Đà
Phiên
âm Hán Việt:
Tôn
giả, Vương Xá thành nhân, Hộc-Phạn vương tử, Phật chi tòng
đệ giả, đa văn đệ nhất. Nhất nhật vấn Ca-Diếp viết :
‘Sư huynh ! Thế Tôn truyền kim lan cà sa ngoại, biệt truyền cá
thập ma ?’ Ca-Diếp triệu : ‘A-Nan !’ Tôn giả ứng nặc.
Ca-Diếp viết :‘Đảo khước môn tiền sát can trước’. Hậu
Ca-Diếp nãi cáo tôn giả viết : ‘Ngã kim niên bất cửu lưu,
kim tương chánh pháp phó chúc ư nhữ, nhữ thiện thủ hộ.’
Hậu tôn giả chuyển phó pháp ư Thương-Na-Hòa-Tu, ư Hằng hà
trung lưu nhập diệt, dũng thân hư không, hiện thập bát biến,
nhập phong phấn tấn tam muội, phân thân tứ phần, nhất phụng
Đao-Lợi thiên, nhất phụng Sa-Kiệt-La long cung, nhất phụng
Tỳ-Xá-Ly vương, nhất phụng A-Xà-Thế vương. Các các tạo bảo
tháp cung dưỡng.
Dịch
:
Tổ
thứ hai: Tôn Giả A-Nan-Đà
Tôn
giả, người thành Vương Xá, con ông hoàng Hộc-Phạn, tức là em
con chú của đức Phật, đa văn bậc nhất.
Một
hôm tôn giả hỏi Tổ Ca-Diếp :
-
Khi Thế tôn truyền lại áo cà-sa vàng cho sư huynh, có còn
truyền cái gì khác nữa chăng?
Tổ
Ca-Diếp bèn gọi :
-
A-Nan !
Tôn
giả đáp lại :
-
Dạ!
Tổ
Ca-Diếp bảo :
-
Đổ cột phướn trước cổng !
Về
sau Tổ Ca-Diếp bảo tôn giả :
Năm
nay ta không ở lại lâu nên bây giờ ta giao phó chánh pháp cho ông,
ông hãy khéo gìn giữ.
Sau
này tôn giả truyền pháp cho Thương-Na-Hòa-Tu, rồi ra giữa dòng
sông Hằng mà nhập niết-bàn. Thân Ngài nhảy vọt lên không
trung, hiện ra mười tám cách biến hóa, rồi vào trong định ‘
phong phấn tấn’. Thân Ngài chia làm bốn phần, một phần cung dưỡng
trời Đao Lợi, một phần cung dưỡng long cung Sa-Kiệt-La, một
phần dành cho vua Tỳ-Xá-Ly, một phần cho vua A-Xà-Thế. Các nơi
đều dựng bảo tháp để thờ Ngài.
Tán
Đa văn tổng trìTuệ tánh viên ngộĐảo khước sát canLưỡng thủ phân phóNan huynh nan đệThị tử thị phụTuy nhiên như thửHội sự hậu tố.
Dịch :
Đa văn tổng trìTrí huệ viên ngộĐổ cột cờ phướnHai tay giao phóAi anh ai em?Cha đó con đó!Tuy là như vậyVẽ xong giấy trắng.
Hoặc
thuyết kệ viết :
A-Nan đa văn vị dụng côngMa-Đăng-Già nữ sính tà phongThủy tri đạo lực thiểu kiên cốChung bị dâm thất khốn quyết cungPhật đảnh Lăng Nghiêm nhiếp hoàn bổnVăn Thù Sư Lợi trì cúu ứngKết tập kinh tạng truyền vạn cổPháp môn mệnh mạch lưu tây đông.Tuyên Hóa Thượng Nhân tác
Dịch :
A-Nan đa văn chửa dụng côngMa-Đăng-Già giở thói tà phongMới hay đạo lực chưa kiên cốXui nên bị hãm trong nhà dâmVăn Thù Sư Lợi đi cứu ứngDùng chú Lăng Nghiêm giải thóat vềKết tập kinh tạng truyền vạn cổPhật pháp khơi dòng khắp tây đông.Thượng Nhân Tuyên Hóa soạn
Giảng Thoại
Bài
truyện :
Tôn
giả, Vương Xá thành nhân, Hộc-Phạn vương tử, Phật chi tòng
đệ giả, đa văn đệ nhất. : Ma-ha Ca-Diếp là tổ sư đời thứ nhất, tôn giả A-Nan là
tổ sư đời thứ nhì. Ngài A-Nan là dân thành Vương-Xá, con ông
hoàng Hộc-Phạn, tức em con chú của đức Phật, là người đa văn
bậc nhất. Tất cả những kinh điển Phật nói đều do tôn giả
thuộc lòng mà đọc ra khi kết tập tại núi Kỳ-Xà Quật, trước
sự ấn chứng của đại chúng. Phật nói pháp nào tôn giả cũng
ghi nhớ rành mạch rõ ràng không quên, chứng tỏ trí nhớ của
Ngài quả là phi thường.
Nhất
nhật vấn Ca-Diếp viết : ‘Sư huynh ! Thế Tôn truyền kim lan cà
sa ngoại, biệt truyền cá thập ma ?’ :
Một hôm tôn giả hỏi Ngài Đại Ca-Diếp : ‘Khi Thế Tôn
truyền áo cà-sa cho sư huynh, còn có truyền pháp gì riêng nữa chăng
?’
Ca-Diếp
triệu : ‘A-Nan !’ Tôn giả ứng nặc :
Ngài Đại Ca-Diếp liền dùng phương cách gọi : ‘A-Nan !’ Tôn
giả liền ứng thanh đáp lại.
Ca-Diếp
viết :‘Đảo khước môn tiền sát can trước’ :
Tổ Ca-Diếp nói : ‘Xô đổ cột phướn trước cổng cho ta !’
Hậu
Ca-Diếp nãi cáo tôn giả viết : ‘Ngã kim niên bất cửu lưu,
kim tương chánh pháp phó chúc ư nhữ, nhữ thiện thủ hộ.’
:
Sau đó Ngài Ca-Diếp bảo tôn giả : ‘Nay ta già rồi không
muốn ở đây lâu nên ta truyền thọ chánh pháp nhãn tạng cho ông,
ông hãy gìn giữ cho khéo’. Chữ phó chúc có nghĩa là truyển
thọ.
Hậu
tôn giả chuyển phó pháp ư Thương-Na-Hòa-Tu :
Về sau tôn giả A-Nan lại giao chánh pháp nhãn tạng cho tôn giả
Thương-Na-Hòa-Tu (Chú 1).
Ư
Hằng hà trung lưu nhập diệt, dũng thân hư không, hiện thập bát
biến, nhập phong phấn tấn tam muội :
Ngài A-Nan nhập diệt tại nơi sông Hằng, tức là Ngài viên
tịch ở chỗ này. Khi nhập diệt, thân Ngài không nằm chết ở
đó, mà bay vút lên không trung và biến hóa mười tám cách.
Những ai đã chứng quả có thể biến hóa như vậy, hoặc giả
hiện ra lửa phun trên thân, lửa phun dưới thân, hoặc giả trên
phun nước, hay hiện thân lơ lửng trên không, trong tư thế nằm,
có lúc thì ngồi, tóm lại thân hình biến hóa trên không trung
một cách tự tại. Lúc bấy giờ, gió còn nổi lớn, trời làm
sấm sét nữa, đó là do tôn giả đi vào định, loại định
gọi là ‘phong phấn tấn’.
Phân
thân
tứ phần, nhất phụng Đao-Lợi thiên,
nhất phụng Sa-Kiệt-La long cung, nhất phụng Tỳ-Xá-Ly vương,
nhất phụng A-Xà-Thế vương. Các các tạo bảo tháp cung dưỡng :
Sau khi trà-tỳ, xá lợi của tôn giả chia ra làm 4 phần : một
phần cung dưỡng trời Đao Lợi, một phần cung dưỡng long cung
Sa-Kiệt-La, một phần chia cho vua Tỳ-Xá-Ly, một phần chia cho vua
A-Xà-Thế. Các nơi nhận xá lợi đều cho xây tháp để thờ phượng.
Bài
Tán
Đa văn tổng trìTuệ tánh viên ngộĐảo khước sát canLưỡng thủ phân phóNan huynh nan đệThị tử thị phụTuy nhiên như thửHội sự hậu tố.
Đa
văn tổng trì, tuệ tánh viên ngộ
: Đây là nói về tính cách đa văn của tôn giả. Số là kể
từ lúc đức Phật bắt đầu chuyển pháp luân cho tới khi
vào niết-bàn, Phật nói ra câu nào tôn giả cũng ghi nhớ hết và
có như vậy trong kỳ kết tập, các kinh điển mới được gom
lại do công của tôn giả cùng với sự góp sức của các vị đại
A-La-Hán. Tôn giả là người đa văn, cường ký, tức có ý nói tôn
giả đã từng xem nhiều sách, đọc nhiều, lại có trí nhớ
bền lâu. Tổng trì có nghĩa là thâu tóm hết mọi pháp và giữ
hết các ý nghĩa của chúng không bỏ sót. Đây là đặc tính
của định tổng trì, khiến cho trí huệ dược tròn đầy,
chứng tỏ tôn giả đã ngộ đạo.
Đảo
khước sát can, lưỡng thủ phân phó :
Tổ Ca-Diếp bảo tôn giả xô đổ cột phướn trước cổng, sau
đó đưa y bát cho tôn giả.
Nan
huynh nan đệ, thị tử thị phụ :
Anh em bạn đạo như hai vị kể trên thật khó kiếm ra và cũng
khó mà biết được vị nào đáng là cha, còn vị nào là con !
Tuy
nhiên như thử, hội sự hậu tố :
Tuy nói là như vậy, kỳ thực chẳng có gì, hết thảy mọi pháp
đều là không. Câu ‘hội sự hậu tố’ có nghĩa là vẽ xong một bức họa trên giấy rồi mầu
giấy hoàn trở lại trắng bạch, chẳng thấy vết tích gì. Trong
các vị có ai học được lối vẽ đó chăng ? Quét sạch mọi pháp,
ly hết mọi tướng, chẳng còn gì hết !
Bài
kệ :
A-Nan đa văn vị dụng côngMa-Đăng-Già nữ sính tà phongThủy tri đạo lực thiểu kiên cốChung bị dâm thất khốn quyết cungPhật đảnh Lăng Nghiêm nhiếp hoàn bổnVăn Thù Sư Lợi trì cúu ứngKết tập kinh tạng truyền vạn cổPháp môn mệnh mạch lưu tây đông.
A-Nan
đa văn vị dụng công
: Câu này nói tôn giả A-Nan học nhiều, trí nhớ tốt, nên được
gọi là đa văn bậc nhất, nhưng vì tôn giả không dụng công tu
hành khiến cho sự hiểu biết chỉ là một lọai ‘thiền cửa
miệng’, không phảỉ là sự chứng đắc.
Ma-Đăng-Già
nữ sính tà phong
: Bởi thiếu sự dụng công nên tôn giả gặp nạn Ma-Đăng-Già,
một cô gái ngọai đạo phái ‘Hoàng phát’. Cô này nhờ mẹ
niệm một câu tà chú, bắt được tôn giả, rồi làm cho tôn
giả bị mê hoặc.
Thủy
tri đạo lực thiểu kiên cố
: Lúc bấy giờ tôn giả mới hay rằng mình thiếu sự dụng công
nên đạo lực không đủ kiên cố để chống lại.
Chung
bị dâm thất khốn quyết cung
: Vì thiếu đạo lực nên đã bị mê hoặc và khốn đốn vì câu
chú Tiên Phạm Thiên của
ngoại đạo.
Phật
đảnh Lăng Nghiêm nhiếp hoàn bổn :
May sao khi ấy đức Phật biết được, cho nên :
‘Đỉnh
phóng hào quang, đủ trăm thứ báu, trong hào quang có hoa sen ngàn
cánh, có hóa thân Phật, ngồi thế kiết già, đọc bài thần chú.
. .’
Đức
Phật nói thần chú Thủ Lăng Nghiêm để giải thóat tôn giả
mang về nơi Phật. Lúc đó vị nào là người đi cứu tôn giả
A-
Nan
?
Văn
Thù Sư Lợi trì cứu ứng :
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi dùng thần chú này đi cứu tôn giả.
Kết
tập kinh tạng truyền vạn cổ :
Bởi có cứu được tôn giả nên đến hồi kết tập, pháp bảo
của Phật mới được gom hết lại. Phật nói ra bất luận trong
thời gian nào Ngài A-Nan cũng tụng ra được. Có như vậy từng
bộ kinh điển mói được truyền lại đến ngày nay và mãi mãi
không bi dứt đọan.
Pháp
môn mệnh mạch lưu tây đông :
Giòng Phật pháp truyền qua Trung quốc, rồi truyền khắp phương
tây, phương đông, Xem như vậy thì công lao của tổ A-Nan thật là
vĩ đại, chúng ta phải ghi nhớ điều đó !
Thượng nhân Tuyên Hóa giảng ngày mồng 1 tháng 11 năm 1983
Ghi
chú 1: Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục, quyển 1 ghi như sau :
.
. . Tôn giả A-Nan lại nghĩ rằng : ‘Nếu ta tới riêng một nước
nào để vào niết-bàn, ắt sẽ có chuyện tranh giành giữa các nước
với nhau ; vậy ta phải hóa độ tất cả một cách bình đẳng.’
Tổ bèn đi ra giữa dòng sông Hằng để viên tịch. Lúc ấy sông
núi đất đai nổi lên chấn động sáu cách. Năm trăm tiên nhân
trên núi Tuyết trông thấy điềm lành này liền bay thẳng tới,
đảnh lễ dưới chân tôn giả, quỳ xuống bạch rằng :’Chúng
con phải chứng pháp Phật tại nơi trưởng lão, nguyện trưởng
lão từ bi độ thoát cho chúng con.’ Ngài A-Nan lặng lẽ ưng
thuận, hóa phép biến sông Hằng thành đất vàng rồi nói các pháp
lớn cho các tiên nghe.
Tôn
giả lại nghĩ : ‘Các đệ tử đã được độ nên tới đây
tập họp,’ Trong chốc lát năm trăm vị la-hán ở trên không
trung bay xuống để cho các vị tiên xuất gia thọ giới. Trong
số tiên nhân có hai vị la-hán, một là Thương Na Hòa Tu, còn
vị thứ hai là Mạt Điền Để Ca. Tôn giả biết đây là pháp
khí, bèn nói Thương Na Hòa Tu rằng : ‘Lúc xưa Thế Tôn giao phó
chánh pháp nhãn tạng cho Ngài Đại Ca-Diếp, khi Tổ Ca-Diếp vào
định thì giao phó cho ta. Nay ta sắp vào niết bàn, nên lại giao
phó cho ngươi, ngươi thọ giáo nơi ta, hãy nghe bài kệ này :
Bổn lai phó hữu phápPhó liễu ngôn vô phápCác các tu tự ngộNgộ liễu vô vô pháp.
Dịch :
Xưa nay truyền có pháp
Truyền rồi nói không
pháp
Mỗi người cần tự
ngộ
Ngộ rồi không không pháp
No comments:
Post a Comment