Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
TỔ
21: TÔN
GIẢ BÀ-TU-BÀN-ĐẦU (Vasubandhu)
Tôn
giả, La-duyệt
thành nhân. Nhất thực bất ngọa, lục thời
lễ
Phật, vi chúng
sở quy. Nhị thập
Tổ
chí bỉ, vấn kỳ chúng viết: “Thử đầu-đà
năng
tu phạm
hạnh, khả đắc
Phật
đạo hồ?”
Chúng viết: “Ngã sư tinh
tấn, hà cố bất khả?” Tổ
viết: “Nhữ sư dữ đạo
viễn hỹ!”
Chúng viết: “Tôn
giả uẩn
hà đức
hạnh, nhi cơ
ngã sư?” Tổ viết: “Ngã bất cầu đạo,
diệc bất điên
đảo. Ngã bất
lễ
Phật, diệc bất
khinh
mạn. Ngã bất
trường tọa, diệc bất
giải đãi. Ngã bất nhất thực,
diệc bất tạp
thực. Tâm vô
sở hy, danh chi viết Đạo.” Tôn
giả văn
dĩ, phát vô
lậu trí,
Tổ nãi phó pháp. Hậu chí Na-đề quốc, đắc
Ma-noa-la, tức dũng thân
cao bán
do-tuần, ngật nhiên
nhi trụ.
Tứ chúng ngưỡng chiêm kiền thỉnh, phúc
tọa, già phu nhi thệ.
Dịch:
Tôn giả người thành La-duyệt (Rajagriha),
ngày ăn một bữa, không nằm, sáu thời lễ
Phật, khiến mọi người quy phục. Tổ thứ
20 đến thành này hỏi đồ chúng của Tôn
giả:
Đồ
chúng đáp:
Tổ
bảo:
-
Thưa ngài! Ngài có đức hạnh gì mà chê
Thầy chúng tôi?
Tổ
đáp:
-
Ta không cầu đạo cũng chẳng điên đảo; không lễ
Phật cũng chẳng khinh mạn; không ngồi mãi cũng
chẳng giải đãi; không
ăn một bữa cũng chẳng dùng nhiều lần. Tâm
không mong cầu ấy gọi là Đạo.
Sau
đó, Tôn giả đến nước Na-đề (
Magadha
) độ
Ma-noa-la (Manorhita).
Xong việc, Ngài liền phi thân lên không, cao
nửa do tuần rồi đứng yên trên đó.
Bốn chúng đệ tử đều ngưỡng
lên chiêm bái, cung kính thỉnh cầu, nhưng Ngài
lại ngồi kiết già thị tịch.
Tán:
Vô
lậu trí
thông
Bạch
nhật
thuyết mộng
Ngọc
uẩn
kinh san
Châu
hàm lão bạng
Quang
thấu trùng
trùng
Hiền
giả bất
trùng
Kế
khởi
tuệ
đăng
Thiên
kinh địa
động[1]
Dịch:
Chứng
vô lậu trí
Chiêm
bao ban ngày
Ngọc
chất thành non
Miệng
trai ngậm châu
Sáng
rực muôn trùng
Người
hiền khó gặp
Tiếp
mồi tuệ đăng
Trời
kinh đất động.
Hoặc
thuyết kệ viết (Tuyên
Công thượng nhân tác):
Nhất
thực bất ngọa chân tinh
tấn
Vạn
lự
giai không đại đạo
sư
Ngã
tắc bất cầu trừ điên
đảo
Nhữ
ưng
phá chấp ly cuồng ngạo
Cần
tu vô
lậu đạo
chủng trí
Xả
khí
hữu vi công
đức siêu
Như
thị tâm ấn truyền
Tổ ý
Dịch:
Ngủ
ngồi ăn ngọ dốc công phu
Chẳng
vướng sầu lo bậc chân tu
Ta
quyết không cầu trừ điên đảo
Ông
nên phá chấp dứt cuồng ngu
Siêng
tu vô lậu Như Lai trí
Xả
bỏ hữu vi phúc đức bù
Như
vậy chư Tổ truyền tâm ấn
Tây
Thiên Đông độ mãi vân du
Giảng:
Đoạn
văn hôm nay, quý vị phải đặc biệt chú ý!
Vì sao? Vì đoạn văn này rất dễ bị người
thiền cửa miệng xử dụng để lừa thiên
hạ, nên chúng ta phải biết từ ngữ lời nói
đối đáp qua
lại của Tổ thứ 20 và Tổ thứ 21, xem các
ngài dụng ý ở chỗ nào? Không phải nói chúng
ta cứ học theo đúng những lời đối đáp
trên rồi đi lừa người khác, mạo nhận mình
là Tổ sư. Đó là điều không thể nào
chấp nhận được. Còn như muốn nói theo cách
đó thì phải là những ai có đủ tư cách chân
chánh, bằng không thì không thể nói như
vậy được. Thế nào gọi là đủ tư cách?
Người ấy là người được truyền tâm ấn
của Phật, gánh vác sự nghiệp của Như Lai.
Nếu không phải là người gánh vác sự
nghiệp của Như Lai thì tuyệt đối không
thể lạm dụng phát biểu những lời nói trên.
Tôn
giả, La-duyệt
thành nhân:
Tôn giả Bà-tu-bàn-đầu là Tổ 21 của
Tây Thiên, người thành La Duyệt, Ấn
Độ.
Nhất
thực bất ngọa:
Trước khi chưa gặp Tổ thứ 20, Tôn giả ngày
chỉ ăn một bữa; bất
ngọa, vì là thường ngồi không nằm,
tức là “bất đảo đơn” – không nằm
xuống. Có người ngộ nhận nói “bất đảo
đơn” là không ngủ, nhưng ở đây không
phải vậy; “bất đảo đơn” không phải là
không ngủ mà “ngủ ngồi”. Con người khó
mà không ngủ, cho nên điều này phải hiểu
cho rõ, không lẫn lộn được. Có rất
nhiều người không am tường chữ nghĩa,
hoặc giả những kẻ ăn mà không biết mùi
vị, những ai thường ăn nói một cách hồ
đồ, đều cho rằng “bất đảo đơn” là
không ngủ, tức là họ chẳng hiểu rõ ý nghĩa
của câu “bất đảo đơn”. Quý vị nên
biết, đã là người mà bảo rằng không
ngủ, có nghĩa là ai đó không am hiểu sự tình.
Ba việc ăn uống, ngủ nghỉ, mặc quần áo là
việc mỗi ngày không thể thiếu, bất luận
một người nào cũng cần đến ; Bởi vậy
bảo “bất đảo đơn” là “không ngủ”,
chính là đem sai truyền sai, hoàn toàn sai
lầm.
Khi
ở Đài Loan tôi còn nghe có người phê bình
Hòa Thượng “Trái Cây” (Hòa Thượng
Quảng Khâm), họ phê bình thế nào? Họ nói:
-
Ái
chà!
Nghe
tiếng“ái chà!” tôi mới hỏi:
-
Làm
sao đó?
-
Ngài
ăn cháo rồi!
Ý nói Hòa thượng Trái Cây nay đã ăn
cháo rồi.
Cái
giọng người
ta trả lời như vậy là hàm
ý gì đây?
Có nghĩa là Hòa Thượng Trái Cây nay đã ăn
cháo, tức là một chuyện tầy trời, là phá
giới, là phạm trai, là đọa lạc, hàm ý đại
khái là như vậy.
Kỳ
thật đây là chuyện bình thường, Ngài
tuổi cao như vậy, ăn cháo là đúng lắm.
Vả lại, ăn cháo hay không cũng là việc
của Ngài, người ngoài không có quyền can
thiệp vào việc riêng của Ngài. Ngài ăn cơm
hay không đều là
ý nguyện của Ngài, hoàn toàn không có
vấn đề giới luật của Phật là không cho
phép ăn cơm, ăn cháo, làm gì có đạo lý đó?
Đã không có đạo lý này thì vì duyên cớ gì
mà người ta lại la hoảng lên như vậy để
phê bình Hòa Thượng là không đúng? Chính vì
lẽ “thói quen mà không xét nét sẽ tạo thành
phong cách”[3].
Mọi người quen thấy hòa thượng ăn thuần
trái cây, nay bỗng thấy Ngài ăn cháo, ấy là
coi như đã có tội, phạm tội lớn như các
tội giết người, đốt nhà, cướp của
vậy! Đến nỗi họ còn thì thầm bên tai tôi:
“Chuyện này không nên nói cho ai biết đó!”
Quý vị xem! Tại sao lại phải như vậy? Chính
vì “thói quen mà không xét nét sẽ tạo thành
phong cách” nên người ta mới không hiểu đó
là chuyện dĩ nhiên, không biết rằng người
tu hành là phải như vậy, rằng việc Hòa Thượng
ăn cháo là việc riêng của Ngài.
Lại
có lời đồn nói Hòa Thượng Trái Cây là
“vị sư câm” (á dương tăng), không biết
giảng kinh, không giảng được gì hết, họ
phê bình như vậy đó! Vậy là có nghĩa Hòa
Thượng không hiểu Phật pháp!
Người
thuyết pháp chân chính, không nhất thiết dùng
lời để thuyết pháp, “lấy hành động ở
đời, để dạy bảo mà thôi”[4],
Ngài dùng hành động của mình để biểu
hiện. Hành động của Ngài chính là thuyết
pháp; tư tưởng và tác phong của ngài, chính
là thuyết pháp! Có câu nói “Xử lý việc vô
vi, thực hành giáo hóa không lời, vạn vật
tạo tác mà không từ khước, sanh ra mà không
có, làm mà không nương theo, có công mà không
nhận”[5].
Thánh nhân mới có thể làm được việc đó,
nhưng phàm phu không biết, nên phê bình xằng
bậy, suy nghĩ mù quáng. Quý vị thấy đáng
thương biết chừng nào!
Cho
nên khi nói “thường ngồi không nằm”, hoàn
toàn không phải có nghĩa là không ngủ. Quý
vị phải chú ý! “Ăn một bữa” là một
ngày ăn một bữa. Vì sao phải ăn một bữa?
Vì lúc xưa Đức Phật còn tại thế, tất
cả Tỳ-kheo đều ăn một bữa, gọi là “ngày
ăn một bữa, gốc cây ngủ một giấc, giữ
mình chớ tiếp tục thêm!”
Lại còn phải bỏ lại tiền của, không
màng tới của cải thế gian, vậy mới là người
thực sự không có tâm tham, là người tu hành
chân chính. Vì vậy, sau khi chúng ta xuất gia,
tuyệt đối không nên xem tiền bạc là
trọng yếu! Mà phải xem tiền bạc như rác rưỡi
dơ bẩn, không nên suốt ngày từ sáng đến
tối đều nuôi mộng nào phát tài, nào làm
tiền, lúc nào cũng tâm niệm câu: “Trời phú
cho gọi là tiền, noi theo tánh gọi là tiền,
tu đạo gọi là tiền; tiền ấy chẳng thể
phút nào xa lìa được!”[6]
Ồ! Không thể như vậy được đâu!
Lục
thời Lễ
Phật:
Tôn giả Bà-tu-bàn-đàu ban ngày lễ Phật,
ban đêm cũng lễ Phật; ngày ba thời lễ
Phật, đêm ba thời lễ Phật. Vì sao Ngài ăn
một bữa? Bởi vì Ngài lễ phật không có
thời gian để ăn, nên ăn một bữa. Vì sao
ngài không nằm? Cũng vì lễ Phật, không có
thời gian để nằm. Ở đây tôi giúp Ngài
giải thích, nếu quý vị không tin xin quý
vị thỉnh Ngài hỏi thử xem, bẩm báo với
ngài tôi nói như vậy đúng hay sai? Vi chúng
sở quy: Ngài dụng công và tu hành
như vậy, đại chúng đều biết Ngài chỉ ăn
một bữa, thường ngồi không nằm, sáu
thời đều lễ Phật, nên mọi người đều
tán thán Ngài. Đối với một vị tu hành lâu
năm như thế, họ vô cùng khâm phục và đỉnh
lễ sát đất.
Nhị
thập
Tổ
chí bỉ:
Bất ngờ, người tới đó là một vị Tổ sư!
Tôn giả đương dụng công tu tập như vậy,
thì có vị tác
gia - thiện tri thức tới! Chí
bỉ, tức là đến chỗ này, đến địa
phương này. Đi đến nơi rồi thì có chuyện
gì xẩy ra đây? Vấn
kỳ chúng viết:
Tổ hỏi các đồ chúng của Tôn giả. Vì sao
Tổ lại có vẻ hạ mình xuống, hỏi han các
đệ tử của Tôn giả như vậy? Bởi vì Tổ
biết ngày sau Tôn giả sẽ có thể là một
vị Tổ sư đời thứ 21, nên mới cư xử như
vậy, cốt giúp Tôn giả phá chấp. Do đó
Tổ mới cật vấn các tín chúng như sau: “Thử
đầu-đà
năng
tu phạm hạnh, khả đắc
Phật
đạo hồ?”
Vị đầu-đà này siêng tu phạm hạnh có
thể đắc Phật đạo chăng? Gọi là đầu-đà,
vì mỗi ngày Tôn giả chỉ ăn một bữa, thường
ngồi không nằm, sáu thời lễ Phật, thực hành
hạnh đầu-đà. Phạm hạnh chính là người
có hạnh thanh tịnh. Tổ nói: “Vị này
nhiệt tình thực hành hạnh đầu-đà, vậy
chớ có thể đạt đạo chăng? Thành Phật
được chăng?” Tổ cật vấn như vậy trước
số đồ chúng và tín chúng của Tôn giả.
Chúng
viết: “Ngã sư tinh
tấn, hà cố bất khả?”:
Vì đồ chúng rất sùng bái và cung kính Ngài,
nên khi nghe Tổ thứ 20 vừa nói như vậy,
mọi người liền thưa: “Thưa Ngài! Thầy tôi
tinh tấn như vậy, ngày ăn một bữa, thường
ngồi không nằm, ngày đêm sáu thời đều
lễ Phật. Sáng tinh tấn, tối tinh tấn, thân
tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm sáu thời
thường tinh tấn; thân tâm, tính mạng đều
không ngừng nghỉ, dù may rủi đến tính
mạng cũng không ngừng nghỉ, tu hành như
vậy làm sao không đắc đạo được? Mà sẽ
đạt được tất cả!”
Tổ
viết: “Nhữ sư dữ đạo
viễn hỹ!”:
Vừa nghe xong,
Tổ thứ 20 liền nói: “Thầy của các ông còn
cách rất xa Phật đạo, còn cách xa mười
vạn tám nghìn dặm!”
Chúng viết: “Tôn giả uẩn hà đức hạnh, nhi cơ ngã sư?”: Các đồ chúng của Tôn giả vừa
nghe Tổ nói, tỏ vẽ không kính phục, liền
trả lời: “Thưa Ngài! Ngài có đức hạnh gì?
Bản thân ngài có đạo đức gì? Ngài có tư
cách gì để phê bình Thầy chúng tôi chứ?
Ngài mỉa mai và xem thường thầy chúng tôi,
Ngài có tư cách và đức hạnh gì chứ?” Cơ
là cơ phúng chính là xem thường, dịch thành văn bạch
thoại: Ngài có đạo đức gì? Ngài xem thường
thầy chúng tôi sao? Ngài xem thường thấy chúng
tôi! Ngài dám chê thầy chúng tôi!”
Tổ
viết: “Ngã bất cầu đạo:
Tổ thứ 20 nói: “Ta không cầu đạo”.
Nếu phải địa vị của Đại sư Vĩnh Gia,
người đã từng nói “Tuyệt học vô vi nhàn
đạo nhân” thì lúc đó mới có đủ tư cách
nói câu “ta không cầu đạo”; còn như không
phải là nhàn
đạo nhân, không phải là người đã tu
chứng, không phải là người chân chính gánh
vác sự nghiệp của Như Lai thì không có tư
cách nói rằng tôi không cầu đạo, tôi là
người vô tu vô chứng. Có câu nói như sau:
“Cúng dường chư Phật ba đời trong mười
phương cũng không bằng cúng dường một vị
vô tu vô chứng”. Người vô tu vô chúng
mới có thể nói “Tôi không cầu đạo. Diệc bất điên đảo”: Nghĩa là cũng không điên đảo, ý nói:
tôi không cầu đạo là không cầu đạo,
chớ không phải là thấy tiền tài, trở thành
người đam mê tiền tài; thấy sắc, trở thành
người mê sắc; thấy danh tiếng, trở thành
người mê danh tiếng; thấy rượu chè, trở
thành người mê rượu chè; bốn thứ vừa
kể không làm cho tôi bị mê mờ!
Ngã
bất lễ
Phật: Tôi không thường xuyên lễ Phật. Không lễ Phật,
không phải là nói thấy Phật mà không đỉnh
lễ, không phải ý đó, mà
ý nói là không phải trong cả sáu thời thường
lễ Phật. Quý vị nên hiểu rõ câu văn này!
Khi câu văn này nói “tôi không lễ Phật”,
thì không nên nghĩ rằng: “Ái chà! Tổ thứ
20 hoàn toàn không lễ Phật, quý vị nói ta
lễ cái gì? Lễ
đống bùn hay mãnh gỗ?” Không phải như
thế! “Tôi
không lễ Phật” là nói không phải trong
sáu thời
tôi đều lễ Phật.
Diệc bất
khinh mạn:
Nhưng tôi không sinh tâm khinh mạn, cũng không
xem thường một vị nào, mà xem tất cả chúng
sinh đều có Phật tính và có khả năng thành
Phật. Khi chú giải, giảng giải cần phải
đặc biệt chú ý ở đoạn này. Quý vị không
nên nhìn vào câu văn này, nghĩ: “Ồ! Tổ
thứ 20 không lễ Phật, vậy công phu ba
bước một lạy cũng chẳng nên công
trạng gì!” Không thể nghĩ như vậy được!
Ngã
bất
trường tọa:
Tôi tính ngồi, thì ngồi xuống; tính nằm thì
nằm xuống.
Diệc
bất giải đãi:
Nhưng không phải là lúc nào cũng nằm dài
ra, biếng nhác quá đáng; thậm chí ăn cơm cũng
vì đói bụng, vì bụng không được đáp
ứng; nếu bụng đã được đáp ứng rồi,
thì sẵn cơm đó ăn tôi cũng không ăn! Lười
biếng như thế đó. Ở đây nói tuy tôi không
phải thường ngồi không nằm, nhưng cũng không
phải là giải đãi.
Ngã
bất nhất thực:
Tôi không nhất định ngày ăn một bữa, diệc
bất tạp
thực: Nhưng cũng không ăn nhiều
lần, ăn cái này một chút này, cái kia một
chút, thậm chí ăn năm sáu món, bảy tám món,
mười mấy món…có khác gì cái cảnh tượng
vào lúc ngọ, giờ ăn cơm, mắt quý vị mở
to hơn cả mắt bò, rồi thì, một khi đến nơi
liền: “Ồ! Món này chắc là ngon, ta phải
lấy một ít; món này thì dở đây, ta không
lấy!” Không phải vậy! Đây ý nói là không
có vấn đề chọn lựa, không phân biệt, không
ăn tạp, có thức gì thì ăn thức đó, không
ăn uống xô bồ. Cũng không hề nghĩ: “Ồ!
Cái món này coi bộ tuyệt vời, ta phải nếm
xem!” Không phải cái phong cách như vậy,
bởi trong lòng không khởi lên một sự phân
biệt nào. Ăn tạp có nghĩa là thích ăn lung
tung mọi thứ, còn không ăn tạp thì không
hề chọn lựa xem cái gì ngon mới ăn.
Tâm
vô
sở hy:
Trong lòng tôi cũng không chút “hy vọng”.
Chữ “hy” ở đây là hy vọng, cũng chính là
mong cầu; vô
sở hy là không có thứ gì phải hy vọng
và mong cầu. danh
chi viết Đạo.”: Đó chính là đạo!
Tôn
giả văn
dĩ, phát vô lậu trí:
Đứng bên cạnh, Tổ thứ 21 nghe được; vì
Tổ thứ 20 không trực tiếp nói với Ngài, mà
nói với tín chúng, đồ chúng và những người
sùng bái Ngài. Lúc này, giả tỷ những ai còn
nặng về “ngã tướng”, mà nghe những
lời này chắc sẽ đáp: “Ái chà! Ông đang
muốn khiêu khích, khiến đồ đệ của tôi
không tin tôi nữa chứ gì? Ông thích gì đây!
Tôi sẽ đánh cho ông một trận!” Lúc này
lửa vô minh đã cháy lên. Nhưng Ngài không
phải như vậy!
Tu
hành chân chính là phải tu thực sự, không
phải theo lối tu qua quýt cho xong việc. Lễ
Phật không phải là cách lễ làm bộ làm
tịch; ta ăn một bữa, lại treo bảng hiệu
tu hành ghi: “Quý vị biết không? Tôi ngày
ăn một bữa! Quý vị biết không? Tôi thường
ngồi không nằm! Quý vị biết không? Tôi
từ sáng đến tối đều lễ Phật!” Ra
sức khua chiêng đánh trống, đến đường
phố để bán bảng hiệu tu hành, khiến rất
nhiều tín đồ đổ xô đến, để cho họ bàn
tán với nhau: “Người này mới đúng là chân
tu! Đúng là vị Phật sống đó! Một Bồ-tát
sống đó!” rồi cúi đầu đỉnh lễ và
lạy ba lạy; nói lạy một lạy là không được,
phải lạy ba lạy, giống như khi ta trông
thấy Phật thật sự! Tu hành không nên như
vậy, không thể chỉ cố gắng phô trương công
phu tu hành của mình, đạo đức của mình, có
như vậy mới mong có ngày đạt được “trí
huệ vô lậu”.
“Trí
tuệ vô lậu” này cốt yếu là đọan
dục trừ ái, thân tâm buông bỏ, không có gì
cả; không có gì cả, không cầu danh, cũng không
cầu lợi .
Lần
nữa Tôi xin nói với quý vị, không phiền não
cũng là “Trí tuệ vô lậu”. Căn bản
phiền não phát xuất từ đâu? Chính là
xuất phát từ ham muốn của quý vị. Nếu quý
vị không ham muốn thì không phiền não. Vì
sao quý vị có phiền não? Vì quý vị chưa đoạn
trừ được ham muốn! Nếu quý vị đoạn
trừ ham muốn rồi thì “Tính định ma phục
ngày ngày an vui, vọng niệm không khởi nơi nơi
thanh bình”, điều đó rất rõ ràng. Quý
vị phải thực sự không ham muốn thì không
còn phiền não, không phiền não sẽ được
tự tại! Tự tại với một thứ thì tất
cả đều tự tại, giải thoát một thứ thì
tất cả đều giải thoát, một thứ không chướng
ngại thì tất cả không chướng ngại, chính
là ở chỗ này! Đó gọi là “Trí vô
lậu”.
Tổ
nãi phó pháp:
Tổ thứ 20 liền truyền pháp môn tâm ấn cho
Tổ thứ 21 (chú 1). Hậu
chí Na-đề quốc, đắc Ma-noa-la: Sau
đó Tổ thứ 21 đến nước Na-đề, truyền
pháp cho Tôn giả Ma-noa-la, tức
dũng thân
cao bán
do-tuần, ngật nhiên
nhi trụ:
Ngay sau đó, Ngài liền vọt lên hư không cao
mấy mươi trượng. Nửa do-tuần, một đại
do-tuần là tám mươi dặm, trung do-tuần là sáu
mươi dặm, tiểu do-tuần là bốn mươi dặm;
như thế ở đây là bốn mươi dặm, độ cao
gần giống độ cao của máy bay hiện tại.
Ngài không có cánh mà vọt mình lên hư không
cao nữa do-tuần, rồi đứng giữa hư không.
Tứ
chúng ngưỡng chiêm kiền thỉnh, phúc tọa,
già phu nhi thệ:
Bốn chúng đều ngẫng đầu lên nhìn nói:
“Ái chà! Kỳ là thật! Kỳ lạ thật!”
Lại thành kính thỉnh Ngài trở lại, mọi người
nói: “Thưa thầy! Thầy hãy nhanh trở lại
đi! Chúng con chưa hiểu rõ Phật pháp! Chúng
con còn phải học Phật pháp nhiều hơn
nữa.” Thế
rồi, Tổ thứ 21 ngồi kết-già an nhiên thị
tịch.
Tán
Vô
lậu trí thông, Bạch nhật thuyết mộng:
Chứng được vô lậu thông, cũng gọi là
lậu tận thông, tức là đã đoạn được
hết dục. Nếu quý vị không đoạn được
dục, lòng còn nhiều ham muốn, giống như
trên đầu có bao nhiêu sợi tóc là bấy nhiêu
thứ dục thì khỏi có bàn tới vấn đề
lậu tận thông. “Bạch nhật thuyết
mộng” là nói mộng giữa ban ngày. Vấn đề
này đem nói chuyện với người thường cũng
chẳng khác gì giữa ban ngày mà nói chuyện
mộng, chắc chắn người ta không thể
hiểu nổi.
Ngọc
uẩn
kinh san, Châu hàm lão bạng:
Đây là khối ngọc báu lấy ở Kinh sơn, còn
hạt châu (pearl) thì lấy ra từ con (ngọc)
trai già – trai càng già thì ngọc càng sáng,
càng to và đẹp.
Quang
thấu trùng
trùng, Hiền giả bất trùng:
Ánh sáng viên ngọc của con trai già, chiếu
khắp mọi nơi. “Hiền
giả bất trùng”,
tuy tu hành như vậy nhưng Ngài vẫn chưa
thực sự chứng quả. Cho nên Tổ thứ 20 đến
để dẫn dắt bằng cơ phong chuyển ngữ, qua
bao nhiêu câu đối đáp giữa hai bên.
Kế
khởi
tuệ
đăng, Thiên kinh địa động:
Nối tiếp đèn trí tuệ của Phật giáo,
một việc lớn khiến cho trời kinh đất động,
không phải là điều mà người thường có
thể tưởng tượng được. Có chỗ tôi
giảng nhầm, xin quý vị hãy xử dụng trí
huệ mình, đặng có thể nhắc cho tôi hay;
Bởi vì tôi talking
too much, so don't talk.
(nói nhiều lắm rồi, thôi không nói nữa)
Kệ
Tôi
viết kệ tụng này, quý vị ghi nhớ hay không
cũng không quan trọng; Có điều, vì nó tôi
đã nặn óc suy nghĩ để cố gắng viết ra.
Chính tôi cũng biết bài kệ chẳng hay ho gì,
nhưng dù nó thô kệch, tôi hy vọng “cục
gạch ném ra sẽ dẫn tới viên ngọc”[7],
và bài kệ có thể được đáp ứng với
sự xuất hiện của những câu hoa mỹ hơn
trong tương lai, đặng tán thán các lịch đại
Tổ sư cũng như chư Phật đời quá khứ. Bài
kệ này nói lên như vậy.
Nhất
thực bất ngọa chân tinh
tấn:
Ý này phần trước đã giảng rồi. Tu hành
như vậy thật là tinh tấn! Tuy nhiên, đối
với chúng ta thì không nên thấy mình tinh
tấn đã sanh tâm cống cao ngã mạn, một
lối pháp chấp. Chẳng hạn, không nên nói
rằng: “Ta đây tu như vậy, lễ Phật như
vậy, thường ngồi mà không nằm như vậy đó!”,
mà phải nghĩ là người ta còn tu hơn mình, mình
chỉ là thứ hạng chót, chẳng đáng nói
tới, một kẻ nhỏ nhoi không ra gì. Chúng ta
cần phải có một tâm trạng như vậy, đừng
có tự đắc mà sanh tâm khinh mạn, kiêu
ngạo, lấy việc thường ngồi mà không nằm
coi như một chuyện gì tuyệt vời. Có gì đâu
mà tuyệt vời? Chính cái ý nghĩ “tuyệt
vời” đó là một chướng ngại lớn, làm
tiêu hết công tu lâu nay của chúng ta. Mọi công
đức bị đốt hết cũng chỉ vì cái tâm kiêu
mạn đó!
Vạn
lự
giai không đại đạo
sư:
“Vạn lự giai không” là mọi điều tư
lự đều không có, giống như câu nói: “Nực
cười tâm ta, ngây ngây thô kệch, hỏi có
khả năng gì, trăm điều chẳng biết một”[8],
cái gì cũng chẳng biết. Đây là tình trạng
không ý thức, không biết, không nghĩ, không
lo, hàng vạn mối lo đều không. Cũng như câu:
“Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện, sáu căn chợt động
bị mây che”, nếu vạn mối sầu lo đều
là không, tất cả là hư không, thì khắp pháp
giới đều thong dong tự tại. Nếu như quý
vị đạt được như vậy thì quý vị là
một vị đạo sư, bằng không thì không có tư
cách đó. Có người nói: “Tôi hoàn toàn
trống rỗng!” Thật vậy sao? Nếu quý vị
hoàn toàn trống rỗng, làm sao mình biết để
nói quý vị trống rỗng? Nếu quý vị tự nói
mình trống rỗng thì không phải trống rỗng
rồi! Quý vị nói “Mọi suy nghĩ của tôi đều
không” thì ngay đó bên trong vẫn còn một
niệm suy nghĩ!
Ngã
tắc bất cầu trừ điên đảo: Ta
thì không cầu trừ điên đảo,Tổ thứ 20 nói
vậy, ý nói Ngài không cầu đạo, nhưng cũng
không cầu trừ điên đảo, đó là cách
giảng câu tán trên. Đọc tới chỗ này, có
người liền giảng là Tổ nói “ta chẳng
cầu không có điên đảo”, nói như vậy nghĩa
là muốn có điên đảo ư? Không phải giảng
như thế!
Vì
lý do gì mà nói: “Ta không cầu diệt trừ
điên đảo?” bởi “ta chẳng có điên đảo
để cần diệt trừ” cũng giống như câu
“chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân” trích trong đoạn
“Bạn thấy
chăng? Dứt học, vô vi, ấy đạo nhân;
chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân;
thực tánh vô minh tức thật tánh; không thân
ảo hóa tức Pháp thân” (Chứng Đạo
Ca). Đây là trường hợp chẳng có vọng tưởng
để giải trừ, không có nhu cầu diệt trừ.
Phải giảng câu tán theo nghĩa đó: “Ta không
cầu đạo, cũng chẳng trừ vọng tưởng”,
giống như cảnh giới “vô vi vô bất vi”
vậy!
Nhữ
ưng phá chấp ly cuồng ngạo:
Ông nên phá chấp, bỏ sự cuồng ngạo. Nhưng
chúng ta những người học đạo thông thường,
nên phá trừ chấp trước, phá trừ chấp trước
ăn ngày một bữa của mình. Nghe thế, liền
nói: “Ái chà! Thế thì phá chấp trước, tôi
có thể ăn tám bữa sao?”. Không phải như
vậy. Mà “Tôi không chấp trước ngày ăn
một bữa!”. Tuy quý vị ăn ngày một bữa,
nhưng không nên cho rằng ăn một bữa có công
đức gì, không nên chấp vào công đức ấy.
Nếu quý vị chấp vào công đức ấy thì đó
chính là “chỗ này không có 30 lượng”, nói
tôi không có tiền, nhưng có 30 lượng; đây
cũng chính là bán quảng quảng cáo đấy!
Cũng
không cần nói: “Tôi thường ngồi không
nằm, các vị biết không? Mỗi lần ngồi, tôi
ngồi miết cả mười tiếng đồng hồ.” Nói
vậy là nói cái gì đây? Ngồi mười tiếng
đồng hồ thì là cái gì? Là mười tiếng đồng
hồ vọng tưởng: “Nào ta đi ăn phân, nếm
thử mùi vị phân ra sao?” Cho dù quý vị có
ngồi suốt 20 tiếng đồng hồ, cũng chỉ là
ăn toàn phân mà thôi, đâu có ích lợi gì?
Điểm này cần phải hiểu cho thật kỹ mới
được. Có người ngồi được suốt 10
tiếng, nói: “Tôi ngồi 10 tiếng, hoặc giả
đứng luôn 10 tiếng”, hoặc như nói: “Tôi
nhịn ăn, nhịn được 72 ngày, 88 ngày.” Như
vậy là chấp trước đó! Hãy hành động như
không có chuyện gì!
Người
tu hành phải quét sạch mọi pháp, lìa mọi tướng,
không chấp trước vào tướng. “Thấy tướng
lìa tướng tức Bồ-đề”, quý vị thấy tướng
rồi lìa tướng, đó chính là ngộ đạo. Cái
gì gọi là ngộ đạo? Phật giáo chúng ta phá
chấp trước, quý vị chấp trước ăn ngày
một bữa, thường ngồi không nằm, chấp trước
điều giới về tiền bạc, chấp trước cái
này cái kia, hết thảy đều thành chấp trước,
thế thì dường như trên đầu lại đặt thêm
đầu nữa.
Câu
“Ông nên phá chấp lìa kiêu ngạo” này chính
là muốn khuyên ta phải lìa bỏ tâm kiêu căng,
ngã mạn. Kiêu căng là xem ai cũng không ra gì,
“Chà! Trên trời, dưới đất, chỉ có mình
ta là tôn quý!” Ôi! Quý vị trở thành người
tôn quý nhất thế gian. Đức Phật là “Thiên
thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.
Nếu như nói: “Ta ấy à! Hạng chót ta cũng
là người số một của thế gian này đó!
Thế gian, hay xuất thế gian, chỉ có ta là tôn
quý nhất. Ta là số một! Ở phương Tây này
ta là kẻ tu hành số một! Người dụng công
nhiều nhất! Ở phương Tây này ta là người
ăn khỏe nhất!” Ăn nhiều, thì hay ho gì? Ăn
càng nhiều thì đi đại tiện ra nhiều, chớ
có cái gì là hay? Có người nói: “Ái chà!
Pháp sư, Ngài giảng kinh thô tục thế này ư!”
“Lời
thô lẽ tế, đều quy về Đệ nhất nghĩa đế”
(Thô ngôn tế ngữ giai quy Đệ nhất nghĩa),
biết nói không bằng biết nghe. Nếu quý vị
biết nghe thì dù nếu tôi giảng không hay, quý
vị cũng cảm thấy như đường mật rót vào
tai; còn như không biết nghe thì tôi giảng
hay đến đâu quý vị cũng coi như cục phân,
chẳng có giá trị gì! Bởi vậy, ở đây tôi
nghĩ cái gì nói cái đó, nghĩ đến trời nói
trời, nghĩ đến đất nói đất, không nghĩ
trước, không soạn sẵn.
Cần
tu vô
lậu đạo
chủng trí:
Siêng tu pháp môn “vô lậu” này, phải đoạn
trừ ái dục. Chúng ta muốn cái gì hay không
muốn cái gì cũng đều là “dục”; chúng
ta có điều mong cầu hay không mong cầu, cũng
là “dục”. Nói vậy thì “không mong
cầu” mà cũng bảo là “dục” sao? Đúng!
Vì quý vị còn có cái ham “chẳng cầu” đó!
Quý vị phải không có tâm không mong cầu này;
không có tâm “không mong cầu”, cũng không
có tâm “mong cầu”; trừ sạch tất cả pháp,
xa lìa tất cả tướng. Vì thế chúng ta cần
tinh tấn tu tập, không được lười biếng.
Sự lười biếng của quý vị chính là
khuyết điểm. Nên quý vị cần phải tu
học, siêng tu mọi trí tuệ, tu trí tuệ vô
lậu.
Đạt
được trí tuệ vô lậu và lậu tận thông,
thì tất cả tập khí đều đoạn tận! Không
phải xem cái này không đúng, cái kia không
tốt.
Sự
sự đô
hảo khứ
Tỳ
khí
nan
hóa liễu
Chân
năng
bất sinh khí
Tựu
đắc vô giá bảo
Tái
năng
bất oán
nhân
Sự
sự
đô
năng hảo
Phiền
não vĩnh bất sanh
Oán
nghiệt tùng na trảo
Thường
thú nhân bất
đối
Tự
kỷ khổ
một
liễu[9]
Dịch:
Mọi
việc đều tốt đẹp
Tập
tính khó hóa giải
Thật
không sinh giận dữ
Sẽ
được báu vô giá.
Lại
không oán hận người
Mọi
việc đều tốt đẹp
Phiền
não mãi không sinh
Oan
nghiệt từ đây diệt
Thường
nhìn người không đúng
Tự
mình chuốc khổ đau.
Tại
chỗ này, quý vị không sân giận, sẽ được
báu vô giá. Quý vị thấy mọi người sai,
trong lòng thấy không vui; một khi trong lòng
không vui thì đó là khổ rồi! Bản thân quý
vị không vui thì đó là khổ. “Tự tính thường
sinh trí tuệ”, quý vừa thấy người khác
sai thì không có trí tuệ rồi. Nếu quý vị
có trí tuệ, thì không thể xem mọi người
đều ngu si. Vì sao quý vị xem mọi người đều
ngu si? Vì chính mình không thông minh lắm, nên
xem mọi người đều ngu si. Như quý vị mang
kính màu xanh, nên nhìn mọi người đều màu
xanh; mang mắt kính màu hồng thì nhìn mọi người
đều màu hồng; mang kính màu vàng thì nhìn
mọi người đều màu vàng. Trong lòng quý
vị nghĩ gì, thì bên ngoài nó thể hiện ra
thế ấy; cảnh giới ấy đều do tâm hiện
ra và tự tính chiêu cảm. Thôi! Khỏi cần nói
nữa! Nói nhiều rồi, nói đến ngày mai cũng
không hết. Không biết tôi giảng đến đâu
rồi nhỉ! Tôi quên mất!
À! Đúng rồi! Tôi giảng tới câu:
“Thường nhìn người sai trái, tự mình
chịu khổ thôi.” Phải siêng năng tu chủng
trí đạo vô lậu.
Xả
khí
hữu vi công
đức siêu:
Phải xả bỏ pháp hữu vi, không cần tu pháp
hữu vi. “Tất
cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt nước,
như sương cũng như chớp, phải nên quán như
vậy”(Kinh Kim Cang). Sở dĩ chúng ta vất
bỏ nó vì không cần đến nó.
Như
thị tâm ấn truyền Tổ ý:
Đây là pháp tâm ấn, là truyền tâm ấn
của Phật. Ý Tổ sư từ phương Tây đến là:
Đại
đạo nhất tự vô
Thùy
dã thuyết bất xích
Dã
một lưu
hạ dạng
Cánh
một họa xuất đồ[10]
Dịch:
Đạo
lớn một chữ vô
(không)
Không
ai nói ra được
Cũng
không lưu dấu vết
Cũng
không thể họa hình.
Nếu
quý vị họa ra hình thì quý vị mắng chửi
người ta đó! Bảo rằng tôi kiếm ra được
cái hình này hay hình kia, thì đúng là trên
đầu lại đặt thêm một cái đầu. “Đạo
lớn là một chữ vô”, chẳng có gì hết. Tôi
xin nói với quý vị đó là số “0” (zero).
Nếu quý vị hiểu rõ số “0” thì sẽ
hiểu rõ tất cả; còn quý vị không hiểu rõ
số “0” chính là bọn hồ đồ. Nói:
“số “0” đó là không có gì cả, không có
con số!” Không có con số chính là chỗ đó!
“Không đầu không cuối, không trong không
ngoài, không lớn không nhỏ, không trên không
dưới, không vuông không tròn”. Nói: “Tôi
không tin điều này!” Cái đó thì tôi không
giảng rồi! Bởi vì đây chính là “Ý
của Tổ sư”. Ý của Tổ sư, như vậy
như vậy, như thế đó, như thế đó, không có
gì khác.
Tây
thiên Đông độ bộ bộ cao:
Quý vị muốn tu hành pháp môn của Phật,
phải từng bước đi lên. Không được thối
lui, không để mất tâm Bồ-đề; phải từng
bước từng bước lên cao, từng bước hướng
về phía trước, cho nên có câu nói:
Tu hành như đăng bách xích can
Hạ
lai dung dị thượng khứ nan
Người
tu hành ví như kẻ leo lên cái sào trăm thước.
Tụt xuống thì dễ còn leo lên thì rất khó.
Bài
kệ này chẳng hiểu viết như thế có hợp
lẽ không? Nhưng tôi không quan tâm về
chuyện này. Hợp lẽ ư? Vậy là tôi nên
viết như thế. Không hợp lẽ ư? Tôi vẫn nên
viết như thế! Viết xong tôi quên nó luôn. Vì
lẽ đó tôi mong mọi người khỏi cần ghi
nhớ nó, đó là điều hay nhất!
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng vào ngày 29, tháng 8,
năm 1981)
Chú:
Kệ truyền pháp của Tổ thứ 20 truyền cho
Tổ thứ 21 thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi:
Ngôn
hạ hợp
vô
sinh
Đồng
ư
Pháp
giới tính
Nhược
năng như
thị giải
Thông
đạt
sự lý cánh[11]
Dịch:
Tức
thời hợp vô sinh
Đồng
với tính pháp giới
Nếu
hiểu được như vậy
Thông
đạt hết sự lý
[4]
Dĩ hành ư thế, thị chi nhi dĩ (以行於世,示之而已)
[5]
Đoạn này trích một câu trong Đạo Đức
Kinh của Lão Tử “Xử vô vi chi sự, hành
bất ngôn chi giáo, vạn vật tác yên nhi
bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất
thị, công nhi phất cư”(處無為之事,行不言之教,萬物作焉而不辭,生而不有,為而不恃,功而弗居).
[6]
Nguyên văn câu này nhái theo câu sau đây
trong sách Trung
Dung của đạo Nho : “Thiên mệnh
chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo
chi vị giáo; đạo giả dã bất khả tu du
ly dã”, bằng cách thay chữ tiền vào các
chữ “tính”, chữ ‘đạo”,
chữ “giáo”
(天命之謂性,率性之謂道,修道之謂教;道者也,不可須臾離也.)
(天命之謂性,率性之謂道,修道之謂教;錢也者,不可須臾離也.)
[7]
Câu này dịch từ thành ngữ “phao chuyên
dẫn ngọc” (拋磚引玉)
ý
nói dùng những
ý kiến
thô thiển của mình đưa ra để dẫn
tới sự đáp ứng của những ý kiến hay
hơn, cao minh hơn.
No comments:
Post a Comment