Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
TỔ
THỨ HAI MƯƠI: TÔN GIẢ
XÀ-DẠ-ĐA (Jayata)
Tôn
giả, Bắc Thiên Trúc quốc nhân. Văn thập cửu
Tổ ngữ, đốn thích sở nghi. Tổ viết: “Nhữ
tuy dĩ tín, nhi vị minh nghiệp tùng hoặc sanh,
hoặc nhân thức hữu, thức y bất giác, bất giác
y tâm. Tâm bổn thanh tịnh, vô sinh diệt, vô
tạo tác, vô báo ứng, vô thắng phụ, tịch
tịch nhiên, linh linh nhiên. Nhữ nhược nhập
thử pháp môn, khả dữ chư Phật đồng hĩ.
Nhất thiết thiện ác, hữu vi vô vi, giai như
mộng huyễn.” Tôn giả lĩnh chỉ, tức cầu
xuất gia, thụ cụ. Tổ phó dĩ đại pháp, đắc
pháp dĩ, chí La-duyệt thành (Rajagrha), chuyển phó
Bà-tu-bàn-đầu (Vasubandu), tức ư tọa, yểm nhiên
quy tịch.
Dich:
Tôn
giả người nước Bắc Thiên-Trúc, nghe Tổ thứ
19 dạy liền dứt hẳn mối nghi.
Tổ
bảo:
-
Tuy ông đã tin nhưng chưa rõ nghiệp từ hoặc[1]
sinh, hoặc nhân thức mà có, thức nương bất giác,
bất giác nương tâm. Nhưng tâm vốn thanh tịnh,
không sanh diệt, không gây tạo, không báo ứng,
không thắng thua, rỗng lặng, linh diệu. Nếu ông
thâm nhập pháp môn này thì đồng với chư
Phật. Tất cả thiện ác, hữu vi vô vi đều như
mộng huyễn.
Tôn
giả lãnh hội tông chỉ, liền xin xuất gia,
thọ cụ túc, được Tổ truyền đại pháp. Sau
khi đắc pháp, Tôn giả đến thành La-duyệt,
truyền pháp cho Bà-tu-bàn-đầu, rồi ngồi ngay tòa
an nhiên thị tịch.
Bài
tán:
Thiện
ác nhị luân
Kiểu
nhiên bất mậu
Ảnh
hưởng hốt văn
Thoát
lạc sào cữu
Pháp
vô sinh diệt
Mộc
kê đề trú
Một
lượng đại nhân
Khai
nhãn lậu đậu[2]
Dịch:
Thiện
ác hai vòng
Rõ
ràng không sai
Âm
vang theo tiếng
Phá
tan thói cũ
Pháp
không sanh diệt
Gà
gỗ gáy ngày
Đại
nhân xuất chúng
Mở
mắt kẻ ngu
Hoặc
thuyết kệ viết (Tuyên
Công thượng nhân tác):
Đốn
thích sở nghi khoát nhiên thông
Dương
xuân bạch tuyết tận tiêu dung
Khởi
hoặc tạo nghiệp thụ quả báo
Phá
mê hiển chính lập đại công
Thanh
tịnh bổn nguyên Bồ-đề tính
Linh
minh giác chiếu nhật thiên trung
Tâm
tâm tương ấn truyền Phật đạo
Cổ
kim như thị tổng tương đồng.[3]
Dịch:
Dứt
bặt nghi ngờ hoát nhiên thông
Ánh
xuân tuyết trắng biến thành không
Sai
lầm tạo nghiệp chịu dư báo
Hiển
chánh trừ mê lập đại công
Tịnh
khiết chơn nguyên Bồ-đề tính
Linh
minh giác sáng giữa hư không
Tâm
tâm nối tiếp truyền Phật đạo
Xưa
nay như thế mãi tương đồng
Giảng:
Tôn giả, Bắc
Thiên Trúc quốc nhân:
Tổ thứ 20 là Tôn giả Xà-dạ-đa (Jayata), nối
pháp Tổ thứ 19, người Bắc Ấn Độ.
Văn
thập cửu Tổ ngữ, đốn thích sở nghi: Tổ
thứ 19 đến giáo hóa ngài. Khi nghe lời tổ
thứ 19 nói, những vấn đề hoài nghi trong lòng
ngài hoàn toàn được hóa giải. (chú
1)
Tổ
viết:
Tổ thứ 19 nói: “Nhữ
tuy dĩ tín, nhi vị minh nghiệp tùng hoặc sanh:
Tuy ông đã có lòng tin, nhưng ông không biết, không
hiểu rõ nghiệp là từ mê hoặc, nghi hoặc mà
sinh ra.” Chúng
ta, ai cũng vậy, đều là khởi
hoặc - tạo nghiệp - thọ báo - tương lai
sẽ chịu quả báo. “Hoặc
nhân thức hữu, thức y bất giác, bất giác y tâm”:
“Hoặc
này là do thức của ông làm cho ông sanh tâm phân
biệt nên mới có mê hoặc, nghi hoặc; thức
y bất giác”,
tâm phân biệt thì nương vào bất
giác mà có”. Bất
giác nghĩa là không sáng suốt, không hiểu
một cách minh bạch. Vấn đề mà chúng ta đương
nói ở đây chính là ý nghĩa của câu ‘nhất
niệm bất giác sinh tam tế’, một niệm mê
mờ phát sinh ra ba tướng vi tế: nghiệp tướng,
hiện tướng và chuyển tướng. Vậy là, khi có
hoặc thì không rõ chân lý, nên tạo ra nhiều
tội nghiệp. Mê hoặc, nghi hoặc do tâm phân
biệt khởi lên, tâm phân biệt lại do “bất giác”
sinh. “Bất
giác y tâm”,
bất giác thì nương vào ‘tâm ngu si’ mà sinh
ra.
Tâm
bổn thanh tịnh, vô sinh diệt, vô tạo tác, vô báo
ứng, vô thắng phụ:
Tâm trí tuệ bản nguyên này vốn thanh tịnh, không
có vật gì; sở dĩ “vô sinh diệt” vì nó
vốn không sinh diệt;
“vô tạo tác”, cũng không có gì tạo tác;
“không báo ứng”, cũng không có một báo
ứng; “không thắng
bại” cũng không tranh thắng bại với ai.
Tịch
tịch nhiên, linh linh nhiên:
tịch tịch là rất tĩnh lặng. Tuy
tĩnh lặng, vậy mà linh
linh nhiên,
nghĩa là biết tất cả và chiếu sáng tất cả.
Nhữ
nhược nhập thử pháp môn, khả dữ chư Phật
đồng hĩ:
Nếu ông đạt được pháp môn này thì đồng
với chư Phật. Nhất
thiết thiện ác, hữu vi vô vi, giai như mộng
huyễn.”:
Tất cả pháp thiện, pháp ác, pháp hữu vi, pháp
vô vi đều như mộng huyễn, bọt nước.
Tôn
giả lĩnh chỉ, tức cầu xuất gia, thụ cụ,
Tổ phó dĩ đại pháp:
Tôn giả Xà-dạ-đa thụ nhận xong
pháp chỉ của Tổ thứ 19 liền cúi đầu xin
Tổ xuất gia. Tổ cho ngài xuất gia, thụ giới
cụ túc và truyền pháp môn tâm ấn (chú 2).
Tổ
phó dĩ đại pháp, đắc pháp dĩ, chí La-duyệt
thành, chuyển phó Bà-tu-bàn-đầu:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả đến thành La-duyệt
(Rajagrha), Ấn Độ, truyền đại pháp cho Tôn
giả Bà-tu-bàn-đầu (Vasubandu). Truyền pháp xong,
Tôn giả tức
ư tọa, yểm nhiên quy tịch: Ngay tòa thuyết
pháp, Tôn giả tự nhiên viên tịch. “Yểm
nhiên” là rất tự nhiên.
Tán
Thiện
ác nhị luân,
Kiểu nhiên bất mậu:
Hai bánh xe thiện và ác rõ ràng, rất rõ ràng không
thể nhầm lẫn được.
Ảnh
hưởng hốt văn, Thoát lạc sào
cữu:
Nghe Tổ thứ 19 thuyết pháp, bao nhiêu nghi ngờ,
tập khí lâu nay của Ngài bỗng tiêu tan. “Sào
cữu” chính là tập khí trước đây.
Pháp
vô sinh diệt, Mộc kê đề trú:
Pháp vốn không sinh diệt, như gà gỗ gáy giữa
ban ngày. Gà gỗ làm sao gáy chứ? Nó không thể
gáy được.
Một
lượng
đại nhân, Khai nhãn lậu đậu:
Vị Tổ này, trí
huệ rộng lớn không có gì có thể lường được,
một vị đại trí huệ, một thiện tri thức có
nhãn quan tinh tế. Ngài đến thế giới này, tùy
cơ mà giáo hóa, tùy người mà thuyết pháp,
mục đích là phá trừ tập khí cho các chúng
sinh.
Kệ
Kệ
tụng này lại dễ hiểu, nhưng xem nó nói lên điều
gì?
Đốn thích sở nghi khoát nhiên thông:
Đốn là lập tức; thích
là mở ra, thích
nhiên là không vướng vít; nếu hoài nghi có
thể ví như một sợi dây kết lại thành một
cuộn, thì đốn thích là mở tung sợi dây ra.
Khoát nhiên thông là trong khoảnh khắc bừng sáng,
đại khái có thể ví với cái gì đây. . .?
Dương
xuân
bạch tuyết tận
tiêu dung:
Có
thể ví như tuyết khi mùa xuân tới. Dương xuân
là mùa xuân; tuyết mùa xuân nhất định tan
rất nhanh.
Khởi
hoặc tạo nghiệp thụ quả
báo:
Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều là khởi
hoặc,
tạo nghiệp và
chịu quả báo. Hoặc, nói ở
đây là không minh bạch, mê muội. Mê rồi thì
thế nào? Mê rồi
thì sống say chết mộng, mê đắm tài,
sắc, danh, thực, thụy
của thế gian; mê
đắm tiền tài, mê sắc, mê danh, mê ăn uống, mê
ngủ nghỉ. Cái
mê này là do chúng ta để cho ngoại cảnh của
thế gian, đủ các loại, che lấp trí huệ của
mình, khiến chúng ta không tìm cầu lẽ thực, không
suy nghĩ một cách chân chánh rõ ràng, để cam
chịu làm kẻ sống hồ đồ. Khởi
hoặc là nghĩa như vậy. Một
khi khởi hoặc thì nghiệp sẽ được tạo ra;
tạo nghiệp thì có nghiệp thiện, nghiệp ác và
nghiệp không thiện không ác; cũng có thể nói là
tạo tà nghiệp, hoặc chính nghiệp. Quý vị
tạo nghiệp loại gì thì nhất định sẽ chịu
quả báo loại đó.
Thế
giới này như lưới bắt cá; không phải chỉ là
một tấm lưới mà rất nhiều tấm lưới, và
bạn bị mắc vào trong những lưới ấy! Ham
thích danh tiếng thì mắc vào lưới danh tiếng;
thích lợi dưỡng thì mắc vào lưới lợi dưỡng;
thích sắc đẹp thì mắc vào lưới sắc đẹp;
thích ăn uống thì mắc vào lưới ăn uống; thích
ngủ ư? thì quý vị sẽ bị đưa vào “giấc
ngủ tam muội”, kẹt trong cái lưới ngủ. Những
tấm lưới này làm cho chúng ta không còn chút gì
tự chủ nữa, khiến chúng ta lại cạnh tranh,
lại phấn đấu, quẩn quanh ở trong những tấm
lưới đó. Dù quý vị có tranh đấu cách nào,
cố gắng không ngớt tới mức độ nào, dũng mãnh
để tiến tới thế nào đó, cũng là vô ích, không
ra khỏi lưới được. Đã ở trong lưới thì quý
vị không có tự do, quay sang đông cũng đụng,
sang tây cũng đụng, tới cũng vướng, lui cũng vướng,
rút cục vẫn nằm trong lưới, không có lối nào
giải thoát. Nhưng
vừa mới ra khỏi lưới này, trong nháy mắt
lại mắc vào lưới khác; vừa mới ra khỏi con
đường nguy hiểm này, không hiểu sao lại sa vào
con đường nguy hiểm khác, không có lúc nào tự
do! Không có lúc nào giải thoát! Quý vị xem có
khổ đau không?
Phá
mê hiển chính lập đại công:
Vì những lý do này mà chư Bồ-tát và chư Tổ đã
đến giúp chúng ta phá mê, mở bày ra con đường
tu chân chính, dạy chúng ta lập công trong thế
giới này. Lập công, lập đức, lập ngôn, lập
nên ba thứ đại nghiệp bất hủ này.
Thanh
tịnh bổn nguyên Bồ-đề tính:
Tự tính của chúng ta, xưa nay là giác tính thanh
tịnh, cũng chính là tính Bồ-đề không nhiễm
ô.
Linh
minh giác chiếu nhật thiên trung:
Tâm của chúng ta linh minh chiếu sáng, như mặt
trời giữa không trung chiếu soi vạn vật.
Tâm
tâm tương ấn truyền Phật đạo:
Phật từ xưa đến nay là truyền tâm ấn của
Phật, từng đời truyền nhau pháp môn tâm ấn và
đạo chân chính của Phật.
Cổ
kim như thị tổng tương đồng:
Chư Phật xưa kia cũng như vậy, chư Phật hiện
tại cũng như vậy, chư Phật vị lai cũng như
vậy, tất cả đều như vậy không có gì thay đổi.
(Tuyên
công thượng
nhân giảng ngày 23, tháng 8, năm 1981)
Chú
1: Về
công án Tổ thứ 19 giáo hóa Tôn giả Xà-dạ-đa,
thì Truyền Pháp Chính Tông
Ký ghi như sau:
Đại
sĩ (Tổ
thứ 19 Cưu-ma-la-đa)……du hóa đến nước Trung
Thiên Trúc gặp trí sĩ Xà-dạ-đa. Đầu tiên
thấy khách đến nơi này, trí sĩ liền đến
lễ Tổ và thưa: “Thưa Ngài! Cha mẹ con vốn
kính tam bảo, tu hành đúng pháp, nhưng lại
nhiều bệnh tật, việc kinh doanh thì không toại
nguyện. Còn người bên cạnh nhà con hung dữ
giết hại, làm việc ác càng ngày càng tệ, mà
thân hình lại khỏe mạnh, sở cầu như ý.
Thiện ác báo ứng, chẳng lẽ là
điều hư dối sao? Con rất nghi ngờ điều
này, xin Ngài giải mối nghi này giùm con!”
Đại
sĩ đáp:
“Đức
Phật dạy, nghiệp thông suốt ba đời, do
nghiệp thiện đã làm đời trước, nên đời này
được quả báo. Nếu đời này làm
việc ác thì tương lai sẽ gặp báo ứng. Cho nên,
đời này tuy có người làm việc thiện, nhưng
không được phúc báo,
vì báo ứng nghiệp ác đời trước thù thắng hơn.
Đời này tuy có người làm việc ác nhưng không
gặp tai ương, vì nghiệp
thiện đời trước thù thắng hơn. Nếu ngày
nay không được phúc báo, lại làm việc ác thì
đời sau càng đọa vào cõi ác. Nếu đời này
được phúc báo,
lại làm việc thiện thì đời sau nhất định
sinh cõi lành. Lại nữa, đời trước làm việc
thiện, đức ấy mới được một nữa, rồi
thay đổi ý nghĩ làm ác, thì đến đời này trước
được phúc báo
mà sau gặp họa. Đời này làm việc ác, việc
ấy mới một nữa, rồi biết biến việc ác thành
việc thiện, thì đến đời sau trước gặp
họa sau được phúc. Như
hiện nay chuyện báo ứng về thiện ác của cha
mẹ con và người hàng xóm không giống nhau, đó
là do nghiệp đời trước dẫn đến quả báo như
vậy, há chỉ cầu nhân quả một đời sao?”
Tôn giả Dạ-đa nghe Tổ nói xong, bao nhiêu nghi
ngờ của Ngài đều tan biến.
Chú
2:
Kệ truyền pháp của Tổ 19 phó chúc cho Tổ
thứ 20 thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
và Chỉ Nguyệt Lục có ghi:
Tính
thượng bổn vô sinh
Vi
đối cầu nhân thuyết
Ư
pháp ký vô đắc
Hà
hoài tuyệt bất quyết?[4]
Dịch:
Tâm
tính vốn không sinh
Vì
người
cầu nên nói
Đã
không thể đắc pháp
Cần
gì hiểu hay không
No comments:
Post a Comment