Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ thứ 28
: Đại Sư Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma)
Nhị Thập Bát Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma Đại Sư
Tổ,
nam Thiên Trúc Hương Chí vương tam tử dã, tính sát đế lị. Sơ,
vương cung dưỡng Bát-Nhã-Đa-La, nhân thí dĩ bảo châu. Tổ
phát minh tâm địa, Bát-Nhã toại phó pháp. Kệ viết: “Tâm địa
sanh chư chủng, nhân sự phục sanh lý; quả mãn bồ đề viên,
hoa khai thế giới khởi.” Tổ đắc pháp cửu chi, niệm Chấn-Đán
duyên thục, hàng hải lai Lương. Để Quảng, thứ sử Tiêu Ngang,
biểu văn Vũ Đế. Nãi chiếu kiến, vấn: “Như hà thị thánh đế đệ
nhất nghĩa?” Tổ viết: “Khuếch nhiên vô thánh.” Viết: “Đối
trẫm giả thùy?” Tổ viết: “Bất thức.” Đế bất khế. Tổ do thử
độ giang, thiệp Ngụy, chí Tung. Thiểu hậu, đắc Thần Quang,
thọ dĩ đại pháp. Nãi giai đồ vãng Vũ môn Thiên Thánh tự, tọa
hóa, táng Hùng Nhĩ sơn. Đường Đại tông thụy ‘Viên Giác Đại
Sư’, tháp viết Không Quán.
Tổ là
người miền nam Thiên trúc và là con thứ ba của vua Hương Chí,
thuộc giòng sát-đế-lị. Nhân khi vua cúng dường tôn giả
Bát-Nhã-Đa-La có sự việc bảo châu được đưa ra hỏi thử. Tổ
phát minh tâm địa, tôn giả Bát-Nhã bèn truyền pháp cho Tổ và
đọc kệ như sau:
Đất
tâm sanh các giống
Nhân
sự lại sanh lý
Quả
chín bồ đề tròn
Hoa
nở thế giới sanh
Một
thời gian lâu sau ngày được pháp, Tổ nghĩ cơ duyên hoằng
pháp với Trung Hoa đã tới, Ngài đi đường biển qua, nhằm đời
nhà Lương. Khi đặt chân lên đất Quảng, thứ sử Tiêu Ngang
dâng biểu báo tin lên Võ Đế. Đế hạ chiếu mời về Kinh đô. Đế
hỏi: “Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?” Tổ nói: “rổng
rang không thánh.” Hỏi: “Đối diện với trẫm là ai?” Tổ đáp:
“Không biết.” Thấy vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ đi sang
sông, qua đất Ngụy, rồi đến núi Tung sơn. Ít lâu sau, gặp
đại sư Thần Quang, Tổ truyền lại đại pháp. Sau đó, Ngài cùng
đồ chúng đến chùa Thiên thánh tại Vũ Môn. Ngài ngồi yên thị
tịch và được an táng trong núi Hùng Nhĩ. Đường Đại tông ban
thụy hiệu của Ngài là “Viên Giác Đại Sư”, tháp hiệu là Không
Quán.
Tán viết:
Chấn Đán sơ lai
Đối trẫm bất thức
Khoa cữu hân phiên
Sao không xuất huyết
Đắc đoạn tý nhân
Hùng phong lộ tuyệt
Phân tủy phân bì
Sương thượng gia tuyết[1]
Dịch:
Chấn Đán mới đến
Đối trẫm không biết
Vết cũ lật ngược
Gõ
trống (rỗng) xuất huyết
Gặp kẻ chặt tay
Núi Hùng hết lối
Chia tủy chia da
Trên sương thêm tuyết
Hoặc thuyết kệ viết:
Chấn Đán duyên thục Đạt-Ma lai
Đối trẫm bất thức cơ vị cai
Thần Quang Hùng Nhĩ quỵ cửu tải
Huệ Khả tích tuyết tý độc tài
Dĩ
tâm ấn tâm phó đại pháp
Sơ
tổ nhị tổ tục mạng mạch
Lục thứ thọ hại hào vô tổn
Chích lý tây quy lưu vĩnh hoài[2]
Dịch:
Đủ
duyên sơ Tổ qua Đông độ
Trước
trẫm là ai vua chẳng ngộ
Thần
Quang Hùng Nhĩ quỳ chín năm
Huệ
Khả chặt tay đầu đội tuyết
Pháp
lớn truyền trao tâm ấn tâm
Huệ
mạng từ Sơ đến Nhị Tổ
Ám
hại sáu lần chẳng mảy may
Chiếc giầy để lại
ngàn năm nhớ
Ghi chú của
ban biên soạn:
Tổ sư Đạt-Ma lại là Sơ Tổ của dòng Trung Quốc, do đó để quý
vị độc giả có một cái nhìn suốt tận cội nguồn đối với lịch
sử truyền đăng của chư Tổ, ở tập này chỉ đăng phần chánh văn,
còn phần giảng bằng bạch thoại sẽ được đăng trong tập 2 của
Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (Thiền Tông Sơ kỳ
Tổ Sư).
[1]震旦初來 對朕不識 窠臼掀翻 敲空出血
得斷臂人 熊峰路絕 分髓分皮 霜上加雪
得斷臂人 熊峰路絕 分髓分皮 霜上加雪
[2]
震旦緣熟達摩來 對朕不識機未賅
神光熊耳跪九載 慧可積雪臂獨裁
以心印心付大法 初祖二祖續命脈
六次受害毫無損 隻履西歸留永懷
神光熊耳跪九載 慧可積雪臂獨裁
以心印心付大法 初祖二祖續命脈
六次受害毫無損 隻履西歸留永懷
No comments:
Post a Comment