Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ thứ 15: TÔN GIẢ CA-NA-ĐỀ-BÀ (Kanadeva)
Tôn
giả, Nam Thiên
Trúc quốc
nhân. Sơ cầu
phúc nghiệp, kiêm nhạo biện
luận. Hậu yết
Long Thọ tổ, tổ tri thị trí
nhân, tiên khiển thị
giả, dĩ mãn
bát thủy, trí vu
tọa tiền. Tôn giả kiến
chi, tức dĩ nhất châm đầu chi nhi tiến, hân nhiên khế
hội. Tổ tức
vị thuyết pháp, bất khởi ư
tọa, hiện Nguyệt
Luân tướng,
duy văn kỳ thanh, bất kiến kỳ
hình. Tôn giả ngữ
chúng viết: “Kim thử thụy giả, Sư hiện Phật
Tính, biểu thuyết pháp phi thanh
sắc dã.”
Tổ tức
vi thế độ, phó
dĩ đại
pháp. Tôn giả đắc pháp hậu,
hành
hóa chí
Ca-tỳ-la (Kapila) quốc, chuyển phó La-hầu-la-đa (Rahulata),
tức nhập Phấn tấn tam-muội,
phóng bát
quang nhi quy tịch yên.
Dịch:
Tôn
giả người xứ Nam Ấn, ban đầu Ngài chuyên về cầu phước
và thích biện luận. Về sau, Ngài đến yết kiến tổ Long
Thọ, Tổ biết Ngài là người trí nên sai thị giả lấy
một bát nước đầy, đặt trước pháp tòa. Tôn giả thấy bát
nước liền lấy cây kim bỏ vào, rồi bước tới, hai bên hân
hoan khế hội. Tổ thuyết pháp cho Ngài nghe và hiện tướng
mặt trăng ngay tại chỗ ngồi, khiến Ngài chỉ nghe tiếng
Tổ nói mà không thấy hình. Tôn giả bảo đại chúng:
-
Hôm nay Thầy hiện điềm lành là hiển bày Phật tánh và
thuyết pháp nhưng không nghe tiếng và không thấy hình.
Tổ
cho Tôn giả xuất gia và truyền đại pháp. Sau khi đắc pháp,
Tôn giả du hóa đến nước Ca-tỳ-la, truyền pháp cho
La-hầu-la-đa, rồi nhập tam-muội Phấn tấn, phóng tám luồng
ánh sáng và nhập diệt ngay trong đó.
Tán:
Phật
Tổ ba tỵ
Trí
giả nan am
Bát
thủy đầu châm
Lạc
nhị lạc tam
Nguyệt
Luân tam-muội
Đại
địa tinh thiên
Tất
cánh như hà?
Thí
trước nhãn khán!
[1]
Dịch:
Yếu
chỉ Phật Tổ
Người
trí khó lường
Bát
nước ném kim
Ba
rơi, hai rụng
Nguyệt
Luân tam-muội
Đại
địa tanh hôi
Chung
cuộc ra sao?
Thử
dõi mắt nhìn!
Hoặc
thuyết kệ viết (Tuyên
Công thượng nhân tác):
Mãn
bát thanh thủy tịnh vô trần
Nhất
trâm đầu nhập lãng vi hôn
Tính
giác linh minh nguyên phi vật
Trí
quang biến chiếu bản lai chân
Như
thị như thị quán tự tại
Thiện
tai thiện tai ngộ thùy nhân?
Tổ
sư truyền tâm chiêu đại đạo
Ngôn
ngôn ngữ ngữ thuộc phù văn
[2]
Dịch:
Nước
trong đầy bát chẳng bụi trần
Ném
chiếc kim vào sóng gợn dâng
Linh
minh tánh giác không là vật
Trí
quang soi khắp bản lai chân
Như
thế, như thế, quán tự tại
Lành
thay, lành thay, ai ngộ chân?
Tổ
Tổ truyền tâm soi sáng đạo
Ngữ
ngôn, ngôn ngữ thuộc phù vân.
Giảng:
Tôn
giả,
Nam
Thiên
Trúc quốc
nhân:
Tổ thứ mười lăm là Tôn giả Ca-na-đề-bà (Kanadeva), người
nước Nam Thiên Trúc.
Sơ cầu
phúc nghiệp, kiêm nhạo biện
luận:
Về mấy chữ “cầu phúc nghiệp” thì hôm chủ nhật tuần
trước, thầy Hằng Hoa đã viết lầm thành “cầu tổ
nghiệp”. Tôi nghĩ, “cầu tổ nghiệp” là tổ nghiệp nào?
Giảng cách nào cho xuôi đây? Có phải là tổ của ngài có cơ
nghiệp lớn, lắm tiền nhiều của, rồi cầu làm sao để
giữ cái di sản đó chăng? Chà! Giảng như vậy chẳng xuôi tý
nào! Hay là cầu cái địa vị tổ sư? Giảng như vậy cũng
chẳng thông nữa. Sau đó, xem lại đoạn văn, tôi mới hay đó
là chữ “phúc” thay vì chữ “tổ”. Vốn là Ngài ưa cầu
phúc báo nhân thiên và thích sự tranh biện.
Hậu yết
Long Thọ tổ, tổ tri thị trí
nhân, tiên khiển thị
giả, dĩ mãn
bát thủy, trí vu
tọa tiền:
Về sau, Ngài đến yết kiến Tổ thứ mười bốn là Bồ-tát
Long Thọ. Bồ-tát Long Thọ biết Ngài là người trí, liền
bảo thị giả lấy một bát nước đầy đặt trước pháp tòa.
Tôn
giả kiến chi, tức dĩ nhất châm đầu
chi nhi tiến, hân nhiên khế hội:
Thấy bát nước, Tôn giả liền đến trước pháp tòa của
Bồ-tát Long Thọ, lấy một cây kim bỏ vào. “Hân nhiên khế
hội”, khế hội là khế hợp, tức Bồ-tát Long Thọ biết được
ý Tôn giả và Tôn giả cũng biết được ý nghĩ của Bồ-tát
Long Thọ. Nói là hân nhiên vì cả hai phía đều vui mừng, lấy tâm ấn tâm,
tâm này hợp tâm kia, tâm này hiểu tâm kia.
Tổ tức
vi thuyết pháp, bất khởi ư
tọa, hiện Nguyệt
Luân tướng,
duy văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình:
Tổ Long Thọ thuyết pháp cho Tôn giả nghe, dạy cách tu ra sao,
dụng công như thế nào. Lúc ấy, Bồ-tát Long Thọ không rời
khỏi tòa, mà hiện tướng mặt trăng giữa hư không, chỉ
nghe âm thanh trong hư không mà không thấy hình dáng của Bồ-tát.
Tôn giả ngữ chúng viết: “Kim thử thụy
giả, Sư hiện Phật
Tính, biểu thuyết pháp phi thanh
sắc dã.”:
Tổ thứ mười lăm nói cho đại chúng biết điềm lành mà
mọi người trông thấy là do “Thầy hiện Phật tánh”.
Phật tánh là nói bổn tánh của Phật, biểu hiện bằng sự
thuyết pháp không qua âm thanh và hình sắc, nghĩa là chẳng
cứ phải có âm thanh hay hình tướng mới gọi là thuyết pháp.
Tổ tức
vi thế độ, phó
dĩ đại
pháp:
Thế là Bồ-tát Long Thọ cho Tôn giả xuất gia và truyền
diệu pháp tâm ấn (chú 1). Tôn
giả đắc pháp hậu, hành hóa chí Ca-tỳ-la quốc, chuyển phó
La-hầu-la-đa:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa đến nước Ca-tỳ-la
(Kapila) thuộc nước Ấn Độ và tại đây Ngài truyền pháp tâm
ấn cho Tôn giả La-hầu-la-đa (Rahulata). Tức
nhập Phấn tấn tam-muội,
phóng bát
quang nhi quy tịch yên:
Tôn giả nhập tam-muội Sư tử phấn tấn, phóng tám thứ ánh
sáng, sau đó viên tịch.
Tán
Phật
Tổ ba tỵ, Trí giả nan am:
Ý chỉ của Phật Tổ, dù người có trí tuệ cũng không thể
hiểu được.
Bát
thủy đầu châm, Lạc nhị lạc tam:
Ném một cây kim vào trong bát nước, đó là rơi vào hai
và ba [3],
không phải là Đệ nhất nghĩa đế.
Nguyệt
Luân tam-muội, Đại địa tinh thiên:
Tôn giả lại nhập định Nguyệt Luân, vì đại địa này
rất dơ bẩn.
Tất
cánh như hà, Thí trước nhãn khán:
Cuối cùng điều này nói lên điều gì? Quý vị nên nhìn
lại một chút, không nên dùng tai để xem.
Kệ
Mãn
bát thanh thủy tịnh vô trần:
Một bát nước đầy và trong sạch không có gì, không một chút
bụi.
Nhất
trâm đầu nhập lãng vi hôn:
Ném một cây kim vào trong bát nước thì bát nước
liền gợn sóng và vẩn đục.
Tính
giác linh minh nguyên phi vật:
Tánh giác linh minh, tức là không có vật gì. Nếu có vật gì
thì không phải là tánh giác linh minh rồi!
Trí
quang biến chiếu bản lai chân:
Ánh sáng trí tuệ này cũng chính là cái “chân” bản lai
kia, và “Phật tánh” kia cũng là chính quý vị.
Như
thị như thị quán tự tại:
Nó là như vầy! Nó là như vầy! Nếu như quý vị được như
vầy (như thị) thì quán tự
tại được, nếu chẳng được như vầy thì chẳng quán
tự tại được và sẽ không có sự tự tại.
Thiện
tai thiện tai ngộ thùy nhân?:
Nghĩa là “Hay lắm! Hay lắm!” Ngộ là ai đây? Tức nói ai là
người được khai ngộ?
Tổ
sư truyền tâm chiêu đại đạo:
Bồ-tát Long Thọ, Tổ thứ mười bốn và Tôn giả Ca-na-đề-bà
Tổ thứ mười lăm, các vị Tổ Sư đều dùng tâm ấn tâm, dùng
tâm truyền tâm và sự việc diễn ra như vậy. Chiêu
đại đạo là hiển bầy đại đạo một cách rõ ràng.
Ngôn
ngôn ngữ ngữ thuộc phù văn:
Cái gì nói ra được thì cái đó chẳng phải là chân lý, cho
nên nói đó là chỗ tắt đường ngôn ngữ, là chỗ tuyệt
mọi hoạt động của tâm ý (ngôn
ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt).
Tôi
lại nói với quý vị, tôi làm “kệ tụng” này chứ không
phải làm thơ. Nếu làm thơ thì câu một và câu hai cũng không
cần đối nhau. Quý vị xem “Mãn bát thanh thủy” (một
thau nước trong đầy) và “Nhất
trâm đầu nhập” (Ném
vào một cây kim) đều không phải là đối; “tịnh
vô trần” (Sạch không chút bụi) và “lãng
vi hôn” (sóng gợn dâng), cũng không phải đối. Chỉ
có câu ba và câu bốn là đối, “Tính giác linh minh nguyên
phi vật,
Trí quang biến chiếu bản lai chân” (tánh giác linh
minh không một vật, trí quang soi khắp bản lai chân), có thể
xem là một câu đối. Quý vị xem!
“Tính
giác linh minh, Trí quang biến chiếu”; “nguyên
phi vật ”, “bản lai chân”, có thể gọi là đối. “Như thị như thị quán
tự tại” (Như thế, như thế quán tự tại), “Như
thị như thị” đối với
“Thiện tai, thiện tai”;
“quán
tự tại” đối với “ngộ
thùy nhân”. Quán là quan sát; ngộ là khai ngộ. “thùy nhân” người
nào đó? “Tự
tại” và “thùy nhân” những từ đó đều có thể đối được.
“Tổ
sư truyền tâm chiêu đại đạo” (Tổ Tổ truyền tâm
soi sáng đạo), câu tiếp theo không cần đối! “Ngôn ngôn, ngữ ngữ thuộc phù vân”, những lời
quý vị nói ra đều là giả, vì vậy hiện tại tôi đang
giảng cho quý vị cũng là giả, nhưng không nên lười biếng
mới là thật. Vì thế, hôm nay tôi không lười biếng, giảng
kinh xong, lại dạy cho quý vị học.
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng vào ngày 22 tháng 4 năm 1979)
------------------------------------
Chú
1:
Kệ truyền pháp của Tổ thứ
mười bốn phó chúc cho Tổ thứ mười lăm, thấy trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục như sau:
Vị
minh ẩn hiển pháp
Phương
thuyết giải thoát lý
Ư
pháp tâm bất chứng
Vô
sân diệc vô hỷ [4]
Dịch:
Vì
rõ pháp ẩn hiện
Mới
nói lý giải thoát
Không
chứng được tâm pháp
Không
giận cũng không vui
Để
hiểu rõ hàm nghĩa của “rơi vào hai vào ba” cũng như để
biết cụ thể phương pháp thế nào để không “rơi vào
hai, vào ba”, xin (trích) dẫn bài khai thị: “Số Không
(Zero) Là Bí Quyết Để Phản Bổn Hoàn Nguyên” dưới
đây của Hòa Thượng, giảng trong dịp Thiền Thất Mùa Đông
1982:
Số
Không (Zero) Là Bí Quyết Ðể Phản
Tĩnh Hoàn Nguyên
Ở
thiền đường, những người đủ tư cách tham
thiền, biết được chút ít mùi vị thiền thì không
cần nói gì với họ nữa.
'Phàm hữu ngôn thuyết đô vô thật nghĩa'nghĩa rằng:'Nếu còn ngôn ngữ đều là không thật nghĩa'
Tuy
nhiên, đói với những người sơ cơ không thể hoàn
toàn không nói, nếu không nói mình sẽ đi vào chỗ
cực đoan. Cho nên nói để làm chỗ cho quý vị dựa
vào rồi tham thiền, đặng mở khai tâm địa. Tham
thiền bí quyết là phải khiến tâm chuyên nhất. Vì
vậy nói rằng:
'Thiên đắc nhất dĩ thanh,Ðịa đắc nhất dĩ ninh.Nhân đắc nhất dĩ thánh.Vạn vật đắc nhất các chính tính mạng'nghĩa là:'Trời được Một nên thanh.Ðất được Một nên yên.Người được Một thành Thánh.Mọi sự được Một mới chính là nó'
Nhất,
số một, là nguyên thủy của vạn vật, tuy nhiên nó
chưa phải là pháp cứu cánh. Tuy nói rằng:
'Ðắc nhất vạn sự tất.'Nghĩa là:'Khi được con số một, vạn sự đều xong.'
Nhưng
nếu chấp trước vào cái này thì mình sẽ tự nhiên
sinh ra
hai, ba, bốn (lạc nhị, lạc tam),... đó không
phải là cảnh giới chân không. Thế nào là chân không?
Có nghĩa là số không. Cái số không này giống như vòng
tròn vậy, không lớn không nhỏ, không có trong, không
có ngoài, không có trước cũng chẳng có sau; không rơi
vào mà cũng chẳng rớt ra. Tuy nhiên, tất cả số
mục không ly khai số không này.
Người
tu hành chính là tự nơi số một mà quay về số không,
ở nơi số không mình có thể phát sinh vô lượng vô
biên tác dụng. Tuy nói rằng 'Ðắc nhất vạn sự
nhất', nhưng khi tới được số không này rồi thì
số một cũng không còn nữa. Ðó chính là:
'Nhất Pháp bất lập, vạn lự giai không.'nghĩa là:'Chẵng lập Pháp gì, mọi tư tưởng đều không'
Ðó
là cứu cánh giải thoát vậy.
Nếu
muốn tới số không, thì trước hết phải chuyên
nhất cái tâm của mình, đừng khởi vọng niệm, tâm
thể chuyên nhất thì mới có cảm ứng. Cho nên chúng
ta thường nghe nói: 'Cảm ứng đạo giao nan tư nghị'
là vậy.
Chuyên
nhất thì mới đến được chỗ không. Muốn chuyên
nhất là chuyện không phải dễ. Muốn trở về số
không lại càng khó khăn hơn nữa. Tuy gặp khó khăn
chẳng lẽ mình không tham thiền sao? Nếu không tham
thiền thì vĩnh viễn mình không thành đạo. Cái số
không là mẹ của vạn Phật, nó là bổn nguyên của
chư Phật vậy. Cho nên các vị học tọa thiền, đầu
tiên phải học thế ngồi kiết già. Nếu như chân đau
tê cứng, không chịu được, thì mình có thể phương
tiện ngồi bỏ hai chân xuống, sau đó một thời gian
thì phải tập ngồi bán già, ngồi bán già nếu chân
không còn đau như trước thì phải tập ngồi kiết
già. Khi ngồi kiết già vững rồi, chân không đau thì
lúc đó mình mới bắt đầu tham thiền để phá bỏ
vô minh. Người tu đạo, ăn mo mặc ấm đã đầy đủ,
hết chuyện làm, nên tham thiền, đó gọi là du hí nhân
gian. Tham thiền thì phải tham thoại đầu. Tham thiền
tức là tham cứu niệm trước khi nó sinh ra, không
phải là thoại vĩ. Thoại vĩ tức là niệm đã sinh
ra rồi. Cho nên cái niệm chưa sinh thì gọi là thoại
đàu. Thoại đàu phổ biến nhất là câu 'Niệm Phật
là ai?' Chữ 'ai' này chính là cái mà mình phải tham.
Tưởng tượng như mình có cái khoan, bây giờ mình
lấy nó ra mà khoan, mà đục, dùi mài nó cho tới lúc
đâm thủng được núi đá. Tìm coi 'ai' là người
niệm Phật cũng vậy. Tham lui tham tới mãi cho đến
khi đâm thủng được núi vô minh. Thì lúc đó mình
sẽ khai ngộ. Nhưng không phải dụng tâm ý thức mà
tham thiền, không phải dụng tư tưởng mà suy nghĩ,
phải dụng cái tâm chưa hề dùng tới, chưa hề
biết qua bao giờ. Khi phá thủng được cái bổn tham
của mình, thì sẽ khai ngộ, hư không sẽ nát vụn,
ngũ ấm đều là không. Nhưng trong Bát Nhã Ba La Mật
Ða Tâm Kinh có nói rằng:
'Quán tự tại Bồ Tát,hành thâm Bát Nhã,Ba La Mật Ða thờiChiếu kiến ngũ uẩnGiai không độ nhất,Thiết khổ ách, Xá Lợi Tử!Sắc bất dị không,Không bất dị sắc,Sắc tức thị không,Không tức thị sắc,Thọ tưởng hành thức diệcPhục như thị...'
Khi
tham thiền đến chỗ như vậy thì ngũ ấm đều thành
không, lục trần không còn nhiễm được nơi mình.
Ðó chính là bước đầu tiên để thành Phật; nhưng
mình phải khổ công mới được. Phải biết rằng
tham thiền không như niệm Phật. Miệng niệm 'Ai là
người niệm Phật? Ai là người niệm Phật? Ai là người
niệm Phật?....' thể như là cầu cứu vậy, là sai
lầm. Tham thoại đầu thì cần phải từ từ dùi mài
nó hết sức tế tâm, miên mật, ở nơi tự tánh mình
mà dụng công. Cho nên gọi là Tham Ngộ. Tham ngộ nghĩa
là tham tức là ngộ; muốn ngộ cần phải tham. Thực
ra 'Niệm Phật là ai?' chỉ là một vọng tưởng. Tuy
nhiên mình muốn dụng phương pháp dĩ độc công độc.
Dùng một vọng tưởng chế phục tất cả vọng tưởng
khác. Dùng một niệm mà dẹp trừ tất cả vọng
niệm khác.
Vừa
rồi tôi nói đến số không, số không này là con
đường để thành Phật. Ðối với phàm phu thì đó
là không. Sau khi thành Phật rồi thì nó trở thành:
'Ðại quang minh tạng, đại viên kính trí.'
Số
không này có thể sinh ra các Pháp, nhưng cũng có thể
quét trừ các Pháp. Nó là gốc để mình phản bổn
hoàn nguyên. Cho nên cần ở số không này mà dụng công
phu. Có nghĩa rằng dụng công ở chỗ cái gì cũng không
có. Tất cả các pháp đều do số không mà sinh, tất
cả các pháp đều trở về số không. Cho nên:
'Nhất bổn tán vạn thù,vạn thù nãi qui nhất bổn.'nghĩa là:'Một gốc mà phân ra trăm vạn hình thù,trăm vạn hình thù rốt cuộc qui về một gốc.'
Ngày
hôm nay tôi nói điều này cho quí vị nghe không phải
là một nhân duyên nhỏ, mà đây là tiết lộ thiên cơ,
tiết lộ cái bí mật của trời đất. Nói đến cái
bổn nguyên của chư Phật. Ðó là điều kinh thiên động
địa, khiếp vía quỷ thần. Con người làm sao thành
Phật? Là khi hiểu số không này. Con người tại sao
đọa địa ngục, bởi vì không hiểu số không này.
Do đó tất cả thiên ma ngoại đạo, sơn yêu thủy quái,
hồ ly tinh, hoàng thù lang, đủ thứ yêu quái, vỉ không
hiểu số không này mới đi ngược lại với Ðạo,
rồi đọa lạc.
Số
không này tự nó mà sinh ra các thứ khác, tự nó
mới sản sinh ra đủ thứ biến hóa dị đoan. Tuy
rằng hình tướng bất đồng nhưng gốc lại là
một. Phàm phu bởi vì không hiểu nó nên bỏ gốc
theo ngọn, xa rời cái số không này. Dẫu sao tất
cả chúng sanh có Phật Tánh, đều có thể thành
Phật. Tạm thời mình không hiểu, nếu hiểu thì có
thể lập tức thành Phật.
Giảng
ngày 11 tháng 11 năm 1982
nhân
ngày Ðả Thiền Thất
********
No comments:
Post a Comment