Monday, October 6, 2014

Tổ thứ 15: TÔN GIẢ CA-NA-ĐỀ-BÀ

Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật 


Tổ thứ 15:  TÔN GIẢ CA-NA-ĐỀ-BÀ (Kanadeva)

 
 
Tôn giả, Nam Thiên Trúc quốc nhân. Sơ cầu phúc nghiệp, kiêm nhạo biện luận. Hậu yết Long Thọ tổ, tổ tri thị trí nhân, tiên khiển thị giả, dĩ mãn bát thủy, trí vu tọa tiền. Tôn giả kiến chi, tức dĩ nhất châm đầu chi nhi tiến, hân nhiên khế hội. Tổ tức vị thuyết pháp, bất khởi ư tọa, hiện Nguyệt Luân tướng, duy văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình. Tôn giả ngữ chúng viết: “Kim thử thụy giả, Sư hiện Phật Tính, biểu thuyết pháp phi thanh sắc dã.” Tổ tức vi thế độ, phó  đại pháp. Tôn giả đắc pháp hậu, hành  hóa chí Ca-tỳ-la (Kapila) quốc, chuyển phó La-hầu-la-đa (Rahulata), tức nhập Phấn tấn tam-muội, phóng bát quang nhi quy tịch yên.
 
Dịch:
Tôn giả người xứ Nam Ấn, ban đầu Ngài chuyên về cầu phước và thích biện luận. Về sau, Ngài đến yết kiến tổ Long Thọ, Tổ biết Ngài là người trí nên sai thị giả lấy một bát nước đầy, đặt trước pháp tòa. Tôn giả thấy bát nước liền lấy cây kim bỏ vào, rồi bước tới, hai bên hân hoan khế hội. Tổ thuyết pháp cho Ngài nghe và hiện tướng mặt trăng ngay tại chỗ ngồi, khiến Ngài chỉ nghe tiếng Tổ nói mà không thấy hình. Tôn giả bảo đại chúng:
- Hôm nay Thầy hiện điềm lành là hiển bày Phật tánh và thuyết pháp nhưng không nghe tiếng và không thấy hình.
Tổ cho Tôn giả xuất gia và truyền đại pháp. Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa đến nước Ca-tỳ-la, truyền pháp cho La-hầu-la-đa, rồi nhập tam-muội Phấn tấn, phóng tám luồng ánh sáng và nhập diệt ngay trong đó.
                                  
Tán:
Phật Tổ ba tỵ
Trí giả nan am
Bát thủy đầu châm
Lạc nhị lạc tam
Nguyệt Luân tam-muội
Đại địa tinh thiên
Tất cánh như hà?
Thí trước nhãn khán! [1]
Dịch:
   Yếu chỉ Phật Tổ
Người trí khó lường
Bát nước ném kim
Ba rơi, hai rụng
Nguyệt Luân tam-muội
Đại địa tanh hôi
Chung cuộc ra sao?
Thử dõi mắt nhìn!
 
Hoặc thuyết kệ viết (Tuyên Công thượng nhân tác):
Mãn bát thanh thủy tịnh vô trần
Nhất trâm đầu nhập lãng vi hôn
Tính giác linh minh nguyên phi vật
Trí quang biến chiếu bản lai chân
Như thị như thị quán tự tại
Thiện tai thiện tai ngộ thùy nhân?
Tổ sư truyền tâm chiêu đại đạo
Ngôn ngôn ngữ ngữ thuộc phù văn [2]
                    Dịch:
 Nước trong đầy bát chẳng bụi trần
Ném chiếc kim vào sóng gợn dâng
Linh minh tánh giác không là vật
Trí quang soi khắp bản lai chân
Như thế, như thế, quán tự tại
Lành thay, lành thay, ai ngộ chân?
Tổ Tổ truyền tâm soi sáng đạo
Ngữ ngôn, ngôn ngữ thuộc phù vân.
                                                                   
Giảng:
Tôn giả, Nam  Thiên Trúc quốc nhân: Tổ thứ mười lăm là Tôn giả Ca-na-đề-bà (Kanadeva), người nước Nam Thiên Trúc.
 cầu phúc nghiệp, kiêm nhạo biện luận: Về mấy chữ “cầu phúc nghiệp” thì hôm chủ nhật tuần trước, thầy Hằng Hoa đã viết lầm thành “cầu tổ nghiệp”. Tôi nghĩ, “cầu tổ nghiệp” là tổ nghiệp nào? Giảng cách nào cho xuôi đây? Có phải là tổ của ngài có cơ nghiệp lớn, lắm tiền nhiều của, rồi cầu làm sao để giữ cái di sản đó chăng? Chà! Giảng như vậy chẳng xuôi tý nào! Hay là cầu cái địa vị tổ sư? Giảng như vậy cũng chẳng thông nữa. Sau đó, xem lại đoạn văn, tôi mới hay đó là chữ “phúc” thay vì chữ “tổ”. Vốn là Ngài ưa cầu phúc báo nhân thiên và thích sự tranh biện.
Hậu yết Long Thọ tổ, tổ tri thị trí nhân, tiên khiển thị giả, dĩ mãn bát thủy, trí vu tọa tiền: Về sau, Ngài đến yết kiến Tổ thứ mười bốn là Bồ-tát Long Thọ. Bồ-tát Long Thọ biết Ngài là người trí, liền bảo thị giả lấy một bát nước đầy đặt trước pháp tòa.
Tôn giả kiến chi, tức dĩ nhất châm đầu chi nhi tiến, hân nhiên khế hội: Thấy bát nước, Tôn giả liền đến trước pháp tòa của Bồ-tát Long Thọ, lấy một cây kim bỏ vào. “Hân nhiên khế hội”, khế hội là khế hợp, tức Bồ-tát Long Thọ biết được ý Tôn giả và Tôn giả cũng biết được ý nghĩ của Bồ-tát Long Thọ. Nói là hân nhiên vì cả hai phía đều vui mừng, lấy tâm ấn tâm, tâm này hợp tâm kia, tâm này hiểu tâm kia.
Tổ tức vi thuyết pháp, bất khởi ư tọa, hiện Nguyệt Luân tướng, duy văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình: Tổ Long Thọ thuyết pháp cho Tôn giả nghe, dạy cách tu ra sao, dụng công như thế nào. Lúc ấy, Bồ-tát Long Thọ không rời khỏi tòa, mà hiện tướng mặt trăng giữa hư không, chỉ nghe âm thanh trong hư không mà không thấy hình dáng của Bồ-tát.
Tôn giả ngữ chúng viết: “Kim thử thụy giả, Sư hiện Phật Tính, biểu thuyết pháp phi thanh sắc dã.”: Tổ thứ mười lăm nói cho đại chúng biết điềm lành mà mọi người trông thấy là do “Thầy hiện Phật tánh”. Phật tánh là nói bổn tánh của Phật, biểu hiện bằng sự thuyết pháp không qua âm thanh và hình sắc, nghĩa là chẳng cứ phải có âm thanh hay hình tướng mới gọi là thuyết pháp.
Tổ tức vi thế độ, phó  đại pháp: Thế là Bồ-tát Long Thọ cho Tôn giả xuất gia và truyền diệu pháp tâm ấn (chú 1). Tôn giả đắc pháp hậu, hành hóa chí Ca-tỳ-la quốc, chuyển phó La-hầu-la-đa: Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa đến nước Ca-tỳ-la (Kapila) thuộc nước Ấn Độ và tại đây Ngài truyền pháp tâm ấn cho Tôn giả La-hầu-la-đa (Rahulata). Tức nhập Phấn tấn tam-muội, phóng bát quang nhi quy tịch yên: Tôn giả nhập tam-muội Sư tử phấn tấn, phóng tám thứ ánh sáng, sau đó viên tịch.
 
    Tán
Phật Tổ ba tỵ, Trí giả nan am: Ý chỉ của Phật Tổ, dù người có trí tuệ cũng không thể hiểu được.
Bát thủy đầu châm, Lạc nhị lạc tam: Ném một cây kim vào trong bát nước, đó là rơi vào hai và ba [3], không phải là Đệ nhất nghĩa đế.
Nguyệt Luân tam-muội, Đại địa tinh thiên: Tôn giả lại nhập định Nguyệt Luân, vì đại địa này rất dơ bẩn.
Tất cánh như hà, Thí trước nhãn khán: Cuối cùng điều này nói lên điều gì? Quý vị nên nhìn lại một chút, không nên dùng tai để xem.
 
Kệ
Mãn bát thanh thủy tịnh vô trần: Một bát nước đầy và trong sạch không có gì, không một chút bụi.
Nhất trâm đầu nhập lãng vi hôn:  Ném một cây kim vào trong bát nước thì bát nước liền gợn sóng và vẩn đục.
Tính giác linh minh nguyên phi vật: Tánh giác linh minh, tức là không có vật gì. Nếu có vật gì thì không phải là tánh giác linh minh rồi!
Trí quang biến chiếu bản lai chân: Ánh sáng trí tuệ này cũng chính là cái “chân” bản lai kia, và “Phật tánh” kia cũng là chính quý vị.  
Như thị như thị quán tự tại: Nó là như vầy! Nó là như vầy! Nếu như quý vị được như vầy (như thị) thì quán tự tại được, nếu chẳng được như vầy thì chẳng quán tự tại được và sẽ không có sự tự tại.
Thiện tai thiện tai ngộ thùy nhân?: Nghĩa là “Hay lắm! Hay lắm!” Ngộ là ai đây? Tức nói ai là người được khai ngộ?
Tổ sư truyền tâm chiêu đại đạo: Bồ-tát Long Thọ, Tổ thứ mười bốn và Tôn giả Ca-na-đề-bà Tổ thứ mười lăm, các vị Tổ Sư đều dùng tâm ấn tâm, dùng tâm truyền tâm và sự việc diễn ra như vậy. Chiêu đại đạo là hiển bầy đại đạo một cách rõ ràng. 
Ngôn ngôn ngữ ngữ thuộc phù văn: Cái gì nói ra được thì cái đó chẳng phải là chân lý, cho nên nói đó là chỗ tắt đường ngôn ngữ, là chỗ tuyệt mọi hoạt động của tâm ý (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt).
Tôi lại nói với quý vị, tôi làm “kệ tụng” này chứ không phải làm thơ. Nếu làm thơ thì câu một và câu hai cũng không cần đối nhau. Quý vị xem  “Mãn bát thanh thủy” (một thau nước trong đầy) và “Nhất trâm đầu nhập” (Ném vào một cây kim) đều không phải là đối; “tịnh vô trần” (Sạch không chút bụi) và “lãng vi hôn” (sóng gợn dâng), cũng không phải đối. Chỉ có câu ba và câu bốn là đối, “Tính giác linh minh nguyên phi vật, Trí quang biến chiếu bản lai chân” (tánh giác linh minh không một vật, trí quang soi khắp bản lai chân), có thể xem là một câu đối. Quý vị xem!  “Tính giác linh minh, Trí quang biến chiếu”; “nguyên phi vật ”, “bản lai chân”, có thể gọi là đối. “Như thị như thị quán tự tại” (Như thế, như thế quán tự tại), “Như thị như thị” đối với “Thiện tai, thiện tai”; “quán tự tại” đối với “ngộ thùy nhân”. Quán là quan sát; ngộ là khai ngộ. “thùy nhân” người nào đó? “Tự tại”“thùy nhân” những từ đó đều có thể đối được. “Tổ sư truyền tâm chiêu đại đạo” (Tổ Tổ truyền tâm soi sáng đạo), câu tiếp theo không cần đối! “Ngôn ngôn, ngữ ngữ thuộc phù vân”, những lời quý vị nói ra đều là giả, vì vậy hiện tại tôi đang giảng cho quý vị cũng là giả, nhưng không nên lười biếng mới là thật. Vì thế, hôm nay tôi không lười biếng, giảng kinh xong, lại dạy cho quý vị học.
(Tuyên Công Thượng Nhân giảng vào ngày 22 tháng 4 năm 1979)
 
------------------------------------    
         Chú 1: Kệ truyền pháp của Tổ thứ mười bốn phó chúc cho Tổ thứ mười lăm, thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục như sau:
 
Vị minh ẩn hiển pháp
Phương thuyết giải thoát lý
Ư pháp tâm bất chứng
Vô sân diệc vô hỷ [4]
                   Dịch:
Vì rõ pháp ẩn hiện
Mới nói lý giải thoát
Không chứng được tâm pháp
Không giận cũng không vui




[3] Lạc Nhị Lạc Tam: rơi vào hai vào ba.
Để hiểu rõ hàm nghĩa của “rơi vào hai vào ba” cũng như để biết cụ thể phương pháp thế nào để không “rơi vào hai, vào ba”, xin (trích) dẫn bài khai thị: “Số Không (Zero) Là Bí Quyết Để Phản Bổn Hoàn Nguyên” dưới đây của Hòa Thượng, giảng trong dịp Thiền Thất Mùa Đông 1982:
Số Không (Zero) Là Bí Quyết Ðể Phản Tĩnh Hoàn Nguyên

Ở thiền đường, những người đủ tư cách tham thiền, biết được chút ít mùi vị thiền thì không cần nói gì với họ nữa.
'Phàm hữu ngôn thuyết đô vô thật nghĩa'
nghĩa rằng:
'Nếu còn ngôn ngữ đều là không thật nghĩa'
Tuy nhiên, đói với những người sơ cơ không thể hoàn toàn không nói, nếu không nói mình sẽ đi vào chỗ cực đoan. Cho nên nói để làm chỗ cho quý vị dựa vào rồi tham thiền, đặng mở khai tâm địa. Tham thiền bí quyết là phải khiến tâm chuyên nhất. Vì vậy nói rằng:
'Thiên đắc nhất dĩ thanh,
Ðịa đắc nhất dĩ ninh.
Nhân đắc nhất dĩ thánh.
Vạn vật đắc nhất các chính tính mạng'
nghĩa là:
'Trời được Một nên thanh.
Ðất được Một nên yên.
Người được Một thành Thánh.
Mọi sự được Một mới chính là nó'
 
Nhất, số một, là nguyên thủy của vạn vật, tuy nhiên nó chưa phải là pháp cứu cánh. Tuy nói rằng:
'Ðắc nhất vạn sự tất.'
Nghĩa là:
'Khi được con số một, vạn sự đều xong.'
Nhưng nếu chấp trước vào cái này thì mình sẽ tự nhiên sinh ra hai, ba, bốn (lạc nhị, lạc tam),... đó không phải là cảnh giới chân không. Thế nào là chân không? Có nghĩa là số không. Cái số không này giống như vòng tròn vậy, không lớn không nhỏ, không có trong, không có ngoài, không có trước cũng chẳng có sau; không rơi vào mà cũng chẳng rớt ra. Tuy nhiên, tất cả số mục không ly khai số không này.
Người tu hành chính là tự nơi số một mà quay về số không, ở nơi số không mình có thể phát sinh vô lượng vô biên tác dụng. Tuy nói rằng 'Ðắc nhất vạn sự nhất', nhưng khi tới được số không này rồi thì số một cũng không còn nữa. Ðó chính là:
'Nhất Pháp bất lập, vạn lự giai không.'
nghĩa là:
'Chẵng lập Pháp gì, mọi tư tưởng đều không'
Ðó là cứu cánh giải thoát vậy.
Nếu muốn tới số không, thì trước hết phải chuyên nhất cái tâm của mình, đừng khởi vọng niệm, tâm thể chuyên nhất thì mới có cảm ứng. Cho nên chúng ta thường nghe nói: 'Cảm ứng đạo giao nan tư nghị' là vậy.
Chuyên nhất thì mới đến được chỗ không. Muốn chuyên nhất là chuyện không phải dễ. Muốn trở về số không lại càng khó khăn hơn nữa. Tuy gặp khó khăn chẳng lẽ mình không tham thiền sao? Nếu không tham thiền thì vĩnh viễn mình không thành đạo. Cái số không là mẹ của vạn Phật, nó là bổn nguyên của chư Phật vậy. Cho nên các vị học tọa thiền, đầu tiên phải học thế ngồi kiết già. Nếu như chân đau tê cứng, không chịu được, thì mình có thể phương tiện ngồi bỏ hai chân xuống, sau đó một thời gian thì phải tập ngồi bán già, ngồi bán già nếu chân không còn đau như trước thì phải tập ngồi kiết già. Khi ngồi kiết già vững rồi, chân không đau thì lúc đó mình mới bắt đầu tham thiền để phá bỏ vô minh. Người tu đạo, ăn mo mặc ấm đã đầy đủ, hết chuyện làm, nên tham thiền, đó gọi là du hí nhân gian. Tham thiền thì phải tham thoại đầu. Tham thiền tức là tham cứu niệm trước khi nó sinh ra, không phải là thoại vĩ. Thoại vĩ tức là niệm đã sinh ra rồi. Cho nên cái niệm chưa sinh thì gọi là thoại đàu. Thoại đàu phổ biến nhất là câu 'Niệm Phật là ai?' Chữ 'ai' này chính là cái mà mình phải tham. Tưởng tượng như mình có cái khoan, bây giờ mình lấy nó ra mà khoan, mà đục, dùi mài nó cho tới lúc đâm thủng được núi đá. Tìm coi 'ai' là người niệm Phật cũng vậy. Tham lui tham tới mãi cho đến khi đâm thủng được núi vô minh. Thì lúc đó mình sẽ khai ngộ. Nhưng không phải dụng tâm ý thức mà tham thiền, không phải dụng tư tưởng mà suy nghĩ, phải dụng cái tâm chưa hề dùng tới, chưa hề biết qua bao giờ. Khi phá thủng được cái bổn tham của mình, thì sẽ khai ngộ, hư không sẽ nát vụn, ngũ ấm đều là không. Nhưng trong Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh có nói rằng:
'Quán tự tại Bồ Tát,
hành thâm Bát Nhã,
Ba La Mật Ða thời
Chiếu kiến ngũ uẩn
Giai không độ nhất,
Thiết khổ ách, Xá Lợi Tử!
Sắc bất dị không,
Không bất dị sắc,
Sắc tức thị không,
Không tức thị sắc,
Thọ tưởng hành thức diệc
Phục như thị...'
Khi tham thiền đến chỗ như vậy thì ngũ ấm đều thành không, lục trần không còn nhiễm được nơi mình. Ðó chính là bước đầu tiên để thành Phật; nhưng mình phải khổ công mới được. Phải biết rằng tham thiền không như niệm Phật. Miệng niệm 'Ai là người niệm Phật? Ai là người niệm Phật? Ai là người niệm Phật?....' thể như là cầu cứu vậy, là sai lầm. Tham thoại đầu thì cần phải từ từ dùi mài nó hết sức tế tâm, miên mật, ở nơi tự tánh mình mà dụng công. Cho nên gọi là Tham Ngộ. Tham ngộ nghĩa là tham tức là ngộ; muốn ngộ cần phải tham. Thực ra 'Niệm Phật là ai?' chỉ là một vọng tưởng. Tuy nhiên mình muốn dụng phương pháp dĩ độc công độc. Dùng một vọng tưởng chế phục tất cả vọng tưởng khác. Dùng một niệm mà dẹp trừ tất cả vọng niệm khác.
Vừa rồi tôi nói đến số không, số không này là con đường để thành Phật. Ðối với phàm phu thì đó là không. Sau khi thành Phật rồi thì nó trở thành:
'Ðại quang minh tạng, đại viên kính trí.'
Số không này có thể sinh ra các Pháp, nhưng cũng có thể quét trừ các Pháp. Nó là gốc để mình phản bổn hoàn nguyên. Cho nên cần ở số không này mà dụng công phu. Có nghĩa rằng dụng công ở chỗ cái gì cũng không có. Tất cả các pháp đều do số không mà sinh, tất cả các pháp đều trở về số không. Cho nên:
'Nhất bổn tán vạn thù,
vạn thù nãi qui nhất bổn.'
nghĩa là:
'Một gốc mà phân ra trăm vạn hình thù,
trăm vạn hình thù rốt cuộc qui về một gốc.'
Ngày hôm nay tôi nói điều này cho quí vị nghe không phải là một nhân duyên nhỏ, mà đây là tiết lộ thiên cơ, tiết lộ cái bí mật của trời đất. Nói đến cái bổn nguyên của chư Phật. Ðó là điều kinh thiên động địa, khiếp vía quỷ thần. Con người làm sao thành Phật? Là khi hiểu số không này. Con người tại sao đọa địa ngục, bởi vì không hiểu số không này. Do đó tất cả thiên ma ngoại đạo, sơn yêu thủy quái, hồ ly tinh, hoàng thù lang, đủ thứ yêu quái, vỉ không hiểu số không này mới đi ngược lại với Ðạo, rồi đọa lạc.
Số không này tự nó mà sinh ra các thứ khác, tự nó mới sản sinh ra đủ thứ biến hóa dị đoan. Tuy rằng hình tướng bất đồng nhưng gốc lại là một. Phàm phu bởi vì không hiểu nó nên bỏ gốc theo ngọn, xa rời cái số không này. Dẫu sao tất cả chúng sanh có Phật Tánh, đều có thể thành Phật. Tạm thời mình không hiểu, nếu hiểu thì có thể lập tức thành Phật.
Giảng ngày 11 tháng 11 năm 1982
nhân ngày Ðả Thiền Thất
********


No comments:

Post a Comment