Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ mười ba: TÔN
GIẢ CA-TỲ-MA-LA
(Kapimala)
Tôn
giả, Hoa Thị quốc nhân. Sơ vi
ngoại
đạo, thông chư
dị luận, hữu đại thần
lực. Sơ kiến
Thập
nhị tổ,
tác lễ sám
hối. Tổ vấn:
“Nhữ danh thùy? Quyến thuộc
đa thiểu?” Tôn giả viết:
“Ngã danh Ca-tỳ-ma-la, hữu tam
thiên quyến thuộc.” Tổ
viết: “Tận nhữ thần
lực, biến hóa nhược hà?” Viết:
“Ngã hóa cự hải, cực vi
tiểu sự.” Tổ
viết: “Nhữ hóa tánh hải đắc phủ?” Viết: “Hà vi tánh
hải? ngã vị
thường tri.”
Tổ viết: “Sơn
hà đại địa, giai y
kiến lập; tam muội
lục
thông, do tư biến
hiện.” Tôn giả văn
ngôn, dữ đồ chúng câu cầu thế
độ. Tổ triệu
ngũ
bách La Hán, dữ thọ
cụ giới, phục dĩ đại
pháp phó
chi. Đắc pháp
dĩ,
du hóa chí tây Ấn Độ, chuyển phó Long Thọ. Tức hiện
thần biến, hóa hỏa phần
thân.
Dịch
:
Tôn
giả người nước Hoa Thị, ban đầu Ngài là ngoại đạo,
biết nhiều về các luận thuyết khác, có thần thông lớn.
Vừa gặp Tổ thứ mười hai, Tôn giả đảnh lễ xin sám
hối. Tổ hỏi:
-
Ông tên gì? Có bao nhiêu quyến thuộc?
Tôn
giả thưa:
-
Dạ! Con tên Ca-tỳ-ma-la, có ba nghìn đệ tử.
Tổ
hỏi:
-
Dốc hết thần lực của mình, ông biến hóa được đến đâu?
-
Dạ! Con hóa biển cả là việc rất dễ.
-
Ông hóa biển tánh được không?
-
Dạ! Biển tánh là gì, con chưa biết.
Tổ
bảo:
-
Núi sông đại địa đều y cứ biển tánh mà thành lập,
tam-muội lục thông cũng do biển tánh mà biến hiện.
Tổ
nói xong, Tôn giả cùng đồ chúng cầu xin xuất gia. Tổ
triệu tập năm trăm vị A-la-hán đến trao giới Cụ túc và
truyền đại pháp cho Tôn giả. Sau khi đắc pháp, Tôn giả du
hóa đến Tây Ấn Độ và truyền pháp cho ngài Long Thọ, rồi
hiện thần biến hóa lửa tự thiêu thân mình.
Tán
viết :
Xướng
xuất
đa đoan
Phách phách thị
lệnh
Dĩ tâm
ấn tâm
Tự
kính chiếu kính
Kiệt
tận huyền
vi
Đốn
siêu phàm thánh
Chánh
Nhãn khán lai
Bát
vu an bính[1]
Dịch
:
Giảng
nói muôn cách
Gõ
phách làm lệnh
Dùng
tâm ấn tâm
Như
kính chiếu kính
Tận
lẽ nhiệm mầu
Vượt
lên phàm thánh
Chánh
nhãn xem qua
Bình
bát thêm cán.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Ngoại
đạo quy
Phật tục tuệ đăng
Thần thông
biến hóa hiển uy
linh
Thâm
tri sám hối cầu
canh tiến
Đại
khai viên giải tự dung
thông
Bách
thiên tam
muội tánh
hải hiện
Bát
vạn pháp môn nguyện
san thành
Vân
canh thu hoạch cần nỗ
lực
Tu
hành tu hành hựu tu
hành[2]
(Tuyên
Hóa Thượng Nhân tác).
Dịch
:
Ngoại
đạo quy y nối tuệ minh
Thần
thông biến hóa hiển uy linh
Lỗi
xưa sám hối cầu tăng tiến
Rộng
bày trọn nghĩa lý thông tình
Trăm
nghìn biển tánh tam-muội hiện
Tám
vạn pháp môn núi nên hình
Cày
bừa bội thu cần nỗ lực
Tu
hành hai chữ phải chuyên tinh.
(Tuyên
Công Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn
giả, Hoa Thị quốc nhân:
Tôn giả Ca-tỳ-ma-la chính là Tổ thứ mười ba. Ngài sinh
tại nước Hoa Thị, là người nước Hoa Thị.
Sơ
vi
ngoại
đạo, thông chư
dị luận, hữu đại thần
lực:
Ban đầu Tôn giả theo ngoại đạo, thông thạo các môn như
“kỳ môn độn giáp[3]”,
rồi các loại thiên thư, địa thư, nhân thư, cái gì cũng
biết, lại có thần thông lớn nữa.
Sơ kiến Thập
nhị tổ, tác
lễ sám
hối:
Ngài tính tình rất tinh quái, lợi dụng hết mức thần thông
của mình làm nhiều điều ngổ ngáo. Vì vậy, lúc vừa gặp
Tổ thứ mười hai- Bồ-tát Mã Minh, Ngài liền đỉnh lễ Tổ
cầu xin sám hối. (chú 1)
Tổ
vấn:
“Nhữ danh thùy? Quyến thuộc
đa thiểu?”:
Tổ thứ mười hai hỏi Ngài: “Ông tên gì? Ông có bao nhiêu
đệ tử?”, quyến thuộc đây ám chỉ đệ tử.
Tôn
giả viết:
“Ngã danh Ca-tỳ-ma-la, hữu tam
thiên quyến thuộc.”:
Tôn giả thưa: “Dạ! Con tên là Ca-tỳ-ma-la, có ba nghìn đồ
đệ.”
Tổ
viết: “Tận nhữ thần
lực, biến hóa nhược hà?”
:
Tổ
thứ mười hai hỏi: “Vận
hết thần lực của ông, ông có thể biến hóa thế nào?”
Viết:
“Ngã hóa cự hải, cực vi
tiểu sự.”:
Tôn giả thưa: Dạ! Con hóa biển lớn, việc này đối với
con là việc rất nhỏ.”
Tổ
viết: “Nhữ hóa tánh hải đắc phủ?”:
Tổ thứ mười hai nói: “Ông có thể hóa tánh hải được
không?”
Viết:
“Hà vi tính hải? ngã vị
thường tri.”:
Ngài
thưa: “Dạ! Tánh hải là
gì? Con không biết cái đó là gì nên không thể biến hóa ra
được?”
Tổ
viết: “Sơn
hà đại địa, giai y
kiến lập; tam muội lục
thông, do tư biến
hiện”:
Tổ thứ mười hai nói: “Núi sông đại địa đều
hình thành từ tánh hải này, tam-muội lục thông cũng
do tánh hải này biến hiện”.
Tôn
giả văn
ngôn, dữ đồ chúng câu cầu thế
độ:
Nghe xong, tôn giả và đồ chúng của Ngài đều cầu xin xuất
gia. Tổ
triệu
ngũ
bách la hán, dữ thọ
cụ giới, phục dĩ đại pháp
phó
chi:
Tổ thứ mười hai mời năm trăm vị la-hán truyền giới cụ
túc và pháp môn tâm ấn cho Ngài (chú 2). Đắc
pháp
dĩ,
du hóa chí tây Ấn Độ, chuyển phó Long Thọ:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả đến nước Tây Ấn Độ, truyền
pháp tâm ấn cho Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna). Tức
hiện thần biến, hóa hỏa phần
thân:
Tự mình phát ra chân hỏa tam-muội để thiêu thân.
Bài
tán:
Xướng
xuất đa đoan, Phách phách thị
lệnh:
Giảng dạy nhiều cách, gõ phách “拍拍”
đều là phương tiện giáo hóa chúng sinh.
Dĩ tâm
ấn tâm,
Tự kính chiếu kính:
Dùng tâm để ấn tâm, như dùng kính chiếu vào kính.
Kiệt
tận huyền
vi, Đốn siêu phàm thánh:
Giảng nói những lời huyền diệu, siêu việt hàng phàm thánh.
Chánh
Nhãn khán lai, Bát vu
an bính:
Dùng mắt chánh pháp để xem, như trên bát lại tra thêm cán.
Bài
kệ:
Ngoại
đạo quy
Phật tục tuệ đăng:
Trước kia Ngài là ngoại đạo, nhưng quy y Phật và nối
tiếp đèn huệ mạng của Phật.
Thần thông
biến hóa hiển uy
linh:
Ngài có thần thông, biến hóa, hiện ra những việc như
thật.
Thâm
tri sám hối cầu
canh tiến:
Nhưng Ngài biết rõ lỗi lầm trước đây của mình, nên
muốn sám hối, mong được đi lên, thêm một bậc nữa.
Đại
khai viên giải tự dung
thông:
Ngài có tâm cầu tiến như thế, nên Tổ thứ mười hai liền
giảng pháp cho Ngài. Nghe xong, Ngài hoàn toàn khai ngộ, Ngài thông
suốt và hiểu rõ hoàn toàn.
Bách
thiên tam
muội tánh
hải hiện:
Trăm nghìn tam-muội nhiều như thế đều phát xuất từ biển
tánh của tự tánh.
Bát
vạn pháp môn nguyện
san thành:
Ông phát nguyện tu tám vạn pháp môn, dũng mãnh tinh tấn, vì
vậy giống như một quả núi, gom từng chút đất sẽ
hình thành.
Vân
canh thu hoạch cần nỗ
lực:
Quý vị tu hành cũng giống như người làm ruộng, nghĩa là
phải cày bừa, nhổ cỏ thì đến thời mới có thu hoạch,
mới có lương thực. Quý vị phải cần cù nỗ lực mới được,
vậy nghĩa là sao? Tức là . . .
Tu
hành tu hành hựu tu
hành:
Không nên lười biếng! tu hành, tu hành, lại tu hành, không có
lúc dừng nghỉ
(Tuyên
Công Thương Nhân giảng ngày 16, tháng 2, năm 1979)
----------------------------------------
Chú
1: Tôn
giả Ca-tỳ-ma-la vì sao sám hối với Tổ thứ mười hai?
Thấy trong “Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục” ghi:
Tổ
thứ mười hai là Bồ-tát Mã Minh, người nước Ba-la-nại, Ngài
còn có tên là Công Thắng. Vì các công đức hữu tác vô tác
của Ngài rất thù thắng, nên có tên gọi như thế. Ngài
thọ pháp với tôn giả Dạ-xa, sau đó giáo hóa ở nước Hoa
Thị. Một hôm, có một ông già ngồi phía trước bỗng nhiên
ngã lăn xuống đất, Ngài dạy chúng: “Đây chẳng phải là
chuyện bình thường, nhất định sẽ có chuyện lạ”. Ngài
vừa nói xong thì ông già biến mất. Chợt thấy dưới đất
vọt lên một người, thân mầu vàng, kế đó biến hóa ngay
thành một cô gái, tay phải chỉ Ngài rồi nói bài kệ như
sau:
Khể
thủ trưởng lão tôn
Đương
thơ Như
Lai ký
Kim
ư thử
địa thượng
Tuyên
thông đệ nhất nghĩa[4]
Dịch:
Kính
lễ bậc trưởng lão
Sau
được Phật thọ ký
Nay
ở tại nơi này
Tuyên
dương Đệ nhất nghĩa[5]
Nói
kệ xong, trong chớp mắt cô gái biến mất. Ngài nói: “Sẽ có
ma đến đấu sức với ta”. Bỗng chốc, mưa gió ùn ùn kéo
đến, trời đất tối sầm lại, Ngài nói: “Đúng thật ma
đến rồi! Ta sẽ diệt trừ nó”. Ngài liền chỉ lên không
trung, hóa hiện một con rồng vàng lớn, thị hiện uy thần, làm
núi non bị chấn động. Ngài vẫn ngồi yên trên tòa, còn pháp
của ma thì tự biến mất.
Bảy
ngày sau, có một con trùng lớn như con sâu, ẩn mình dưới tòa,
Ngài liến bắt nó, đưa lên cho đại chúng thấy và nói:
“Đây là ma trá hình để nghe trộm pháp của ta”.
Rồi Ngài thả nó ra và bảo đi.
Ma không dám nhúc nhích. Ngài bảo: “Ngươi chỉ cần
quy y Tam Bảo, sẽ được thần thông”. Lúc ấy, ma liền
hiện nguyên hình, đỉnh lễ sám hối.
Chú
2:
Bài kệ truyền pháp của Tổ
thứ mười hai phó chúc cho Tổ thứ mười ba, thấy trong
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi:
Ẩn
hiển tức bổn pháp
Minh ám nguyên bất
nhị
Kim
phó ngộ liễu pháp
Phi
thủ diệc phi ly[6]
Dịch:
Ẩn
hiện tức bổn pháp
Sáng
tối vốn không hai
Nay
trao pháp giải thoát
Không
lấy cũng không bỏ
[1]唱出多端 拍拍是令 以心印心 似鏡照鏡
竭盡玄微 頓超凡聖 正眼看來 缽盂安柄
竭盡玄微 頓超凡聖 正眼看來 缽盂安柄
[2]外道歸佛續慧燈 神通變化顯威靈
深知懺悔求更進 大開圓解自融通
百千三昧性海現 八萬法門願山成
耘耕收穫勤努力 修行修行又修行
深知懺悔求更進 大開圓解自融通
百千三昧性海現 八萬法門願山成
耘耕收穫勤努力 修行修行又修行
[3]
Kỳ
môn độn giáp
奇門遁甲:
một loại thuật số, là môn
dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý, để
cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có
lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta
có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho
từng thời điểm.
[4]稽首長老尊 當受如來記
今於此地上 宣通第一義
今於此地上 宣通第一義
[5]
Đệ
nhất nghĩa
第一義:
gọi tắt của Đệ nhất nghĩa đế. Phạm: Paramartha-satya.
Chân lý sâu xa mầu nhiệm vượt trên tất cả pháp.
Cũng
gọi Thắng nghĩa đế, Chân đế, Thánh đế, Niết bàn, Chân
như, Thực tướng, Trung đạo, Pháp giới. Đối lại với
“thế tục đế”. (Phật
Quang Đại Tự Điển)
今付悟了法 非取亦非離
No comments:
Post a Comment