Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Thích-ca
Mâu-ni Văn Phật
Phiên
âm :
Phật
thị sanh ư trung Thiên Trúc quốc, vi Tịnh Phạn vương chi tử.
Tầm xả Chuyển Luân Thánh Vương vị xuất gia, thành vô thượng
đạo, chuyển đại pháp luân. Kỳ hậu thất thập cửu tuế, thùy
bát-niết-bàn. Nãi dĩ chánh pháp nhãn tạng, phó kỳ cao đệ đệ
tử Ma-ha Ca-Diếp, tịnh sắc A-Nan, phó nhị truyền hoá. Phục dĩ
kim lũ tăng-già-lê y, lịnh đại Ca-Diếp chuyển phó đương lai
bổ xứ Di-Lặc Phật. Kỳ thuyết kệ viết : Pháp bổn vô pháp,
vô pháp pháp diệc pháp ; kim phó vô pháp thời, pháp pháp hà
tằng pháp ?
Dịch
:
Phật
thị sanh tại miền trung nước Thiên Trúc, làm con đức vua Tịnh
Phạn. Ngài sớm từ bỏ ngôi vị Chuyển luân Thánh vương để
xuất gia, rồi thành tựu đạo vô thượng và chuyển bánh xe pháp
lớn. Về sau, năm bẩy mươi chín tuổi, khi sắp sửa vào niết-bàn,
Phật giao chánh pháp nhãn tạng cho cao đệ Ma-ha Ca Diếp, đồng
thời bảo A-Nan phải phụ giúp để truyền bá chánh pháp. Phật
còn đem áo tăng-già-lê vàng đưa cho Ma-ha Ca Diếp giữ để ngày
sau giao lại cho đức Di-Lặc tức vị Phật tương lai. Phật nói
bài kệ như sau : Pháp bổn lai chẳng pháp, cái pháp chẳng pháp
đó cũng là pháp, nay giao cái pháp chẳng pháp, pháp đó chẳng pháp
gì ?
Tán
Vạn
đức trang nghiêm
Nhất
trần bất lập
Tứ
thập cửu niên
Thái
sát lang tạ
Mạt
hậu niêm hoa
Tiếu
đảo Ca-Diếp
Chánh
pháp nhãn tạng
Thiên
thánh bất thức
Dịch
:
Vạn
đức trang nghiêm
Chẳng
bợn nhiễm ô
Bốn
chín năm ròng
Công
lao khó nhọc
Cầm
hoa mỉm cười
Truyền
thừa Ca-Diếp
Chánh
pháp nhãn tạng
Ngàn Thánh
chẳng hay
Kệ
:
Đâu
Suất giáng sanh đế vương gia
Tứ
môn du tất khí phồn hoa
Thuyết
pháp diễn giáo hóa quần phẩm
Từ
bi hỷ xả độ chúng hiệp
Vạn
đức trang nghiêm phước huệ tu
Nhất
trần bất lập tịnh tự tha
Phật
tăng truyền thừa mãn thiên hạ
Nhiếp
thọ hữu tình sổ đạo ma
(Tuyên
Công thượng nhân tác)
Dịch
:Đâu suất giáng trần chốn vương gia
Nhàn du bốn cửa chán phồn hoa
Một đời pháp bảo trao truyền lại
Hỷ xả từ bi hạnh chói lòa
Vạn đức trang nghiêm tròn phước huệ
Tự tâm thanh tịnh gạn tâm tha
Đời đời tiếp nối môn đồ Phật
Độ thoát chúng sanh tựa Hằng sa
Nhàn du bốn cửa chán phồn hoa
Một đời pháp bảo trao truyền lại
Hỷ xả từ bi hạnh chói lòa
Vạn đức trang nghiêm tròn phước huệ
Tự tâm thanh tịnh gạn tâm tha
Đời đời tiếp nối môn đồ Phật
Độ thoát chúng sanh tựa Hằng sa
Giảng
thoại
Phật
thị sanh ư trung Thiên Trúc quốc, vi Tịnh Phạn vương chi tử :
Phật thị sanh tại thành Xá-vệ, miền trung nước Thiên Trúc,
tức Ấn-độ ngày nay, là thái tử, con vua Tịnh Phạn.
Tầm
xả Chuyển Luân Thánh Vương vị xuất gia, thành vô thượng đạo:
Chữ 'tầm' ở đây bao hàm ý nghĩa là chẳng bao lâu. Phật sanh
ra từ chốn cung vàng, nhưng đối với 5 món ham thích của thế
gian như tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ,
Phật không màng tới, cho nên, chẳng bao lâu, Phật từ bỏ luôn
địa vị của Chuyển Luân Thánh Vương, bởi nếu không xuất gia
thì vương vị đó là của Phật trong tương lai. Ngài bỏ lại
hết, ra đi tu hành, đạt đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác,
theo tiếng Phạn gọi là a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Chuyển
đại pháp luân
: Sau khi thành đạo, Phật giảng kinh thuyết pháp, chuyển bánh xe
pháp lớn để giáo hóa chúng sanh.
Kỳ
hậu thất thập cửu tuế, thùy bát-niết-bàn : Về sau, tới
bảy mươi chín tuổi, Phật nhập diệt, hay gọi là viên tịch.
Nãi
dĩ chánh pháp nhãn tạng, phó kỳ cao đệ đệ tử Ma-ha Ca Diếp
: Cao đệ nghĩa là đệ tử nhiều tuổi. Phật giao chánh pháp nhãn
tạng cho vị đệ tử nhiều tuổi nhất là Ma-ha Ca-Diếp, tuy tôn
giả chưa hẳn là đại đệ tử của Phật. Vậy người được
truyền pháp chính là Đại Ca Diếp, vị tôn giả tu hạnh đầu
đà.
Tịnh
sắc A-Nan phó nhị truyền hóa.
Chữ 'sắc' nghĩa là dặn bảo; 'phó' là phụ vào; 'nhị' là
hai. Phật đồng thời bảo tôn giả A-Nan phụ giúp tôn giả
Ca-Diếp trong việc hoằng dương Phật pháp.
Phục
dĩ kim lũ tăng-già-lê y, lịnh đại Ca-Diếp chuyển phó đương
lai bổ xứ Di-Lặc Phật.
Tăng-già-lê là áo của Tổ, là y bát của Phật. Phật dặn dò tôn
giả Ca-Diếp vào núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định cho đến khi
đức Phật Di Lặc ra đời để giao lại y bát cho đức Di Lặc.
Kỳ
thuyết kệ viết
: Kế đó, Phật đọc cho tôn giả Ca-Diếp nghe một bài kệ
truyền pháp.
Pháp
bổn pháp vô pháp : Thế nào gọi là pháp ? Pháp bổn lai là
không có pháp nào để nói.
Vô
pháp pháp diệc pháp
: Tuy nhiên, trong cái không pháp, chúng ta nói tới cái pháp đó.
Kim
phó vô pháp thời
: Nay, truyền lại y bát này là truyền pháp tâm ấn, tức là pháp
chẳng có hình tướng.
Pháp
pháp hà tằng pháp
?: Cái pháp ở trong pháp, là cái pháp gì ? Chẳng có gì hết !
'Bổn lai chẳng có vật gì, còn chỗ nào là bám bụi ?'
Tán
Vạn
đức trang nghiêm, nhất trần bất lập
: Có câu nói : 'tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng
hảo', Phật tu phước, tu huệ, tu đến hàng vạn đức hạnh, mt
chút bụi nhơ cũng không bợn.
Tứ
thập cửu niên, thái sát lang tạ
: Trong thời gian bốn mươi chín năm, công lao khó nhọc không sao
kể siết, bởi cứu độ chúng sanh chẳng phải là điều dễ dàng.
Mạt
hậu niêm hoa, tiếu đảo Ca-Diếp
: Về sau, một hôm Phật cầm bông sen vàng giơ lên, đối trước
đại chúng mỉm cười. Hết thảy đệ tử không một ai nói lên
điều gì, chỉ riêng có tôn giả Ca-Diếp nở mặt, rạng rỡ
mỉm cười. Thấy vậy Phật biết tôn giả Ca Diếp đã hiểu ý
Phật. Ngài bèn bảo đại chúng : 'Ta có chánh pháp nhãn tạng,
niết bàn diệu tâm, ta đã giao cho Ma-ha Ca Diếp !', ý nói pháp
mầu đó đã được Phật truyền lại cho tôn giả.
Chánh
pháp nhãn tạng, thiên thánh bất thức
: Chánh pháp nhãn tạng là loại pháp quý báu vô cùng cho đến các
thánh hiền cũng không nhận ra được.
Kệ
Đâu
Suất giáng sanh đế vương gia
: Đức Phật Thích-ca giáng trần từ nội viện của cung trời Đâu
Suất. Đây là bổ xứ của Phật. Bất cứ ai, muốn thành Phật
cũng phải trú ở ở đây một thời gian trước khi xuống thế.
Vậy, từ nội viện cung trời Đâu Suất, Phật đã giáng sanh
trong một gia đình đế vương, đó là gia đình vua Tịnh Phạn nước
Xá-vệ.
Tứ
môn du tất khí phồn hoa : Một hôm Ngài dạo chơi ngoài bốn
cổng thành, mắt chứng kiến các cảnh
khổ của sanh, già, bệnh, chết, nhận ra rằng cuộc sống thế
gian chẳng có gì là hay ho. Do sẵn túc căn, Phật quyết ý xuất
gia, bỏ lại hết các thứ vinh hoa phú quý của người đời.
Thuyết
pháp diễn giáo hóa quần phẩm :
Để giáo hóa hết thảy chúng sanh Phật thuyết pháp trong bốn mươi
chín năm, giảng kinh trong ba trăm pháp hội
Từ
bi hỷ xả độ chúng hiệp
: Phật dùng 'tứ vô lượng tâm', tức là bốn loại tâm lượng
rộng lớn để giáo hóa hết thảy các chúng sanh có duyên với
pháp. Tứ vô lượng tâm là từ vô lượng tâm, bi vô lượng tâm,
hỷ vô lượng tâm và xả vô lượng tâm.
Vạn
đức trang nghiêm phước huệ tu
: Phật có vạn đức trang nghiêm, trải qua 'tam kỳ tu phước
huệ'. Ngài tu trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp, tu phước và tu
huệ. A-tăng-kỳ kiếp nghĩa là vô lượng số kiếp, tức là bao
nhiêu kiếp không thể kể hết số lượng. Đại a-tăng-kỳ
kiếp là vô số lượng kiếp trong cái vô số lượng. Trong suốt
thời gian đó, Phật đã tu phước, tu huệ, ý nói không có phước
nhỏ nào mà Ngài không tu, không có
loại trí huệ nhỏ nào mà không tập. Phật lại có 'bách kiếp
chủng tướng hảo', bởi trong thời gian cả trăm đại kiếp Ngài
vun trồng tướng tốt sáng rực, trí huệ sáng rực, bởi vậy
mới nói Phật có vạn đức trang nghiêm. Tóm lại, công đúc tu
phước của Ngài đến chỗ viên mãn, huệ đến chỗ viên mãn,
cả phước lẫn huệ đều đầy đủ.
Nhất
trần bất lập tịnh tự tha
: Ở nơi Phật, không những một chút ô nhiễm cũng không bợn, các
dục niệm hoàn toàn thanh tịnh, mà Ngài còn giáo hóa mọi người
đến chỗ được thanh tịnh.
Phật
tăng truyền thừa mãn thiên hạ : Phật truyền lại y bát cho
tăng, tức là giữa hai bên đã có sự tiếp nối. Điều này nói
lên ý nghĩa là sự truyền thừa giáo pháp là điều bắt buộc,
chớ không phải ai muốn làm sao thì làm, mà còn phải truyền pháp
lại cho đời sau. 'Mãn thiên hạ' nghĩa là đệ tử của Phật
ở khắp các nơi trong thiên hạ, chỗ nào cũng có.
Nhiếp
thọ hữu tình sổ đạo ma :
'Nhiếp thọ' là dạy bảo, ý nói giáo
hóa chúng sanh, cứu độ chúng sanh đến chỗ thoát cảnh sanh
tử. Số lượng chúng sanh được cứu độ thì nhiều lắm, kể
ra thì đông như hạt mè, hạt thóc vậy !
Bài
giảng ngày mồng 2 tháng 3 năm 1984
Tuyên
Công Thượng Nhân
No comments:
Post a Comment