Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
|
Phiên
âm Hán Việt:
Tôn
giả bổn Ma-kiệt-đà quốc nhân, xuất Ba-la-môn thị, kỳ hình
kim sắc. Kiến Phật xuất gia, ký độ chư hữu. Phật ư chúng
trung xưng vi đệ nhất. Nhất nhật, Phật ư Linh sơn hội thượng
niêm xuất nhất chi kim sắc bát-la hoa thị chúng. Thời đại chúng
mặc nhiên, duy tôn giả phá nhan vi tiếu. Phật viết : ‘Ngô
hữu chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô
tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngọai biệt
truyền, phó chúc Ma-ha Ca-Diếp.’ Phục dĩ kim lũ tăng-già-lê chúc
viết : ‘Chuyển thọ đương lai Từ thị Phật ‘. Tôn
giả tác lễ viết : ‘Cung y Phật sắc’. Hậu tôn giả dĩ
pháp chuyển phó A-Nan, tức trì tăng-già-lê nhập Kê-Túc sơn
nhập định, dĩ sỉ Từ thị hạ sanh.
Dịch :
Sơ Tổ Tôn giả Ma-ha Ca-Diếp
Tôn
giả là người nước Ma-kiệt-đà, thuộc dòng Bà-la-môn, mang thân
hình sắc vàng. Khi gặp Phật, tôn giả xin xuất gia, mong độ các
chúng sanh. Giữa đại chúng Phật gọi tôn giả là đệ tử bậc
nhất. Một hôm, tại hội Linh Sơn, Phật cầm bông hoa bát-la
sắc vàng nhìn đại chúng. Lúc ấy, mọi người đều lặng yên,
duy một mình tôn giả thì nét mặt rạng lên mỉm cười. Phật
bảo : ‘Ta có chánh pháp nhãn tạng, tâm nhiệm mầu niết bàn,
thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự,
đặc biệt truyền ngòai giáo lý, giao phó cho Ma-ha Ca-Diếp.’
Phật còn đưa áo tăng-già-lê vàng cho tôn giả mà dặn rằng :
‘Hãy chuyển lại cho đức Phật Từ thị.’ Tôn giả đáp lễ
nói : ‘Xin vâng lời Phật dạy.’ Về sau, tôn giả truyền
pháp cho A-Nan rồi mang tấm áo tăng-già-lê đi vào núi Kê-Túc
nhập định, chờ ngày đức Phật Từ thị hạ sanh.
Tán
Phá nhan vi tiếuĐề hồ độc dượcKim lan cà-saHà xứ an trướcTruyền cá thập maTương thố tựu thốƯơng họa nhi tônQuy mao thố giác
Dịch
:
Mặt nở mỉm cườiĐề hồ thuốc độcCà sa sợi vàngCất ở nơi nao ?Truyền lại cái gì ?Từ sai đến saiGieo họa con cháuLông rùa sừng thỏ
Kệ
Linh sơn niêm hoa truyền tâm ấnPhá nhan vi tiếu trực thừa đươngTổ tổ pháp đăng chiếu sa giớiTăng tăng huệ mạng mãn đại thiênKim sắc đầu đà cà sa tràngDi Lặc tôn Phật tục thánh điềnMa-ha Ca Diếp công huân đạiTận vị lai tế ân vô biên
Tuyên Hóa Thượng
Nhân tác
Dịch :
Linh sơn niêm hoa truyền tâm ấnNở mặt mỉm cười tự đảm đươngĐèn pháp lan truyền Hằng sa giớiHuệ mạng tăng già khắp đại thiênCà sa cờ pháp khởi đầu đàDi Lặc nối theo gieo ruộng thánhMa-ha Ca-Diếp công lao lớnĐến tận vị lai ơn vô biênThượng nhân Tuyên Hóa soạn
GiảngThoại
Bài
Truyện
Tôn
giả :
Hai chữ này chỉ Ma-ha Ca-Diếp. ‘Ma-ha’ nghĩa là lớn, nên người
ta còn gọi tôn giả là Đại Ca-Diếp. Hiện nay tôn giả vẫn còn
sống trên thế gian đó ! Ngài vào núi Kê-Túc ở Vân-Nam nhập định,
chờ ngày đức Di-Lặc hạ sanh, đặng có thể truyền lại tấm
áo cà sa vàng cho Phật Di-Lặc. Áo này nguyên là của chư Phật
truyền lại cho nhau, nên đó là lý do tôn giả vẫn còn sống để
chờ ngày ra đời của vị Phật tương lai. Vậy là tính từ ngày
ấy đến nay trải qua 2, 3 ngàn năm, tôn giả hãy còn nhập định
trong núi kê-Túc đó !
Bổn
Ma-kiệt-đà quốc nhân, xuất Ba-la-môn thị :
Ma-kiệt-đà
là tên một nước trong xứ Ấn-độ thuở xưa và là nơi mà tôn
giả ra đời trong một gia đình thuộc dòng bà-la-môn. Dân Ấn phân
ra thành 4 dòng giống và Bà-la-môn là dòng được tôn quý nhất.
Kỳ
hình kim sắc : Thân
hình của tôn giả sáng rực hào quang, át hết các thứ ánh sáng
khác và dường như hào quang đó có khả năng hút trọn mọi
nguồn sáng khác. Bất kể là thuộc nguồn sáng nào, ánh đèn, ánh
mặt trời, mặt trăng, ánh sao v.v. hễ đến gần tôn giả thì đều
bị lu mờ hết ! Bởi vậy Ngài còn được tôn xưng là ‘Ẩm
Quang thị’, người uống ánh sáng. Nguyên do nào mà có hiện tượng
đó ?
Thuở
xa xưa, sau thời đức Phật Tỳ-bà-thi nhập diệt, có một ngôi
chùa đổ nát kia, tháp thì nghiêng sụp, tượng Phật thì phơi
lộ ra, mặc sức cho nắng mưa vùi dập. Lúc ấy có một cô gái
nghèo, trông thấy cảnh chùa tang thương như vậy lấy làm xót xa
mới lập nguyện xây chùa và giát vàng tượng Phật. Nhưng, trước
cảnh nhà bần cùng, cô gái bèn đi các nơi xin cơm hóa duyên để
lấy tiền mua vàng. Trải qua mười năm hóa duyên như vậy, thấy
số vàng dành dụm được có thể xây được chùa và trang nghiêm
tượng Phật, cô gái đi kiếm một ông thợ có nghề làm vàng,
để nhờ ông ta giát vàng tượng Phật. Trước lòng chí thành
của cô gái này, người thợ vàng dần thấy hảo cảm với nàng
và từ đó sẵn sàng bỏ công sức trang nghiêm tượng Phật mà
không đòi tiền công phí nữa. Khi công tác hoàn thành, người
thợ vàng cầu hôn với nàng rồi cả hai phát nguyện đời đời
kết nghĩa vợ chồng, cùng rủ nhau tu, quy y tam bảo xuất gia
liễu đạo.
Tôn
giả Đại Ca-Diếp chính là người thợ vàng năm xưa, tuy sống
trong cảnh nghèo nàn mà biết phát tâm trang nghiêm tượng Phật,
cho nên về sau, đời đời kiếp kiếp cả hai vợ chồng –
tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang là tên hiệu của người vợ khi xuất gia
– đều có thân hình một mầu vàng sáng.
Kiến
Phật xuất gia, ký độ chư hữu :Vào
thời gian đức Thích Ca ra đời thì tôn giả Ca Diếp đương là
một ông già tu ngọai đạo, có rất đông các đệ tử tin theo.
Khi gặp Phật, tôn giả tự nhận thấy mình lầm đường, bèn
xin bái Phật làm thầy, mặc dầu khi ấy tôn giả đã hơn 120
tuổi đời, sau đó tôn giả xuất gia theo Phật, mong được độ
hết thảy các chúng sanh.
Phật
ư chúng trung xưng vi đệ nhất : Trước
mặt đại chúng Phật tôn xưng Ma-ha Ca-Diếp là đại đệ tử
bậc nhất.
Nhất
nhật, Phật ư Linh sơn hội thượng niêm xuất nhất chi kim sắc
bát-la hoa thị chúng :
Một hôm tại núi Linh Thứu, Phật cầm một bông hoa bát-la mầu
vàng ngước nhìn mọi người.
Thời
đại chúng mặc nhiên :
Lúc bấy giờ chẳng ai biết đây là ý nghĩa gì, không biết nói
ra sao cho phải, nên tất cả đều lặng yên.
Duy
tôn giả phá nhan vi tiếu :
Duy có một mình tôn giả là mỉm cười. Dung mạo của tôn
giả vốn là trang nghiêm, cử chỉ thì trịnh trọng, vậy mà
ngay khi ấy, nét mặt tôn giả lại rạng ra tươi cười (phá
nhan).
Phật
viết : ‘Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu
tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn
tự, giáo ngoại biệt truyền, phó chúc Ma-ha Ca-Diếp.’ :
Thấy tôn giả mỉm cười, Phật bảo : ‘Nay ta có chánh pháp
nhãn tạng, đó là tâm nhiệm mầu của niết-bàn, chẳng sanh,
chẳng diệt, các vị nghĩ thế nào ? Nó có hình tướng gì chăng
? Không, nó là vô tướng; Các vị bảo nó chẳng có tướng gì
ư ? Nó lại có hình tướng đó ! Cho nên thực tướng là vô tướng,
chẳng chỗ nào là chẳng tướng. Đó là một pháp môn vi diệu
chẳng thể nghĩ bàn, văn tự không thể tả ra được. Lọai pháp
môn mà nay ta chỉ dạy các vị là một thứ đặc biệt truyền
thọ ngoài giáo điển và pháp môn đó ta đã truyền cho Ma-ha Ca
Diếp rồi !’
Phục
dĩ kim lũ tăng-già-lê chúc viết : ‘Chuyển thọ đương lai
Từ thị Phật’ :
Tăng-già-lê tức là áo cà-sa. Phật lại đưa cho tôn giả tấm
áo cà-sa của Phật mà nói rằng : ‘Ông hãy giữ gìn tấm
áo này đặng ngày sau giao lại cho Phật Từ Thị hay Phật
Di-Lặc, tức là vị Phật tương lai’.
Tôn
giả tác lễ viết : ‘Cung y Phật sắc’ :
Tôn giả Ma-ha Ca Diếp liền đảnh lễ Phật và thưa rằng :
‘Con xin cung kính tuân hành lời dạy của Phật và xin hết lòng
gìn giữ áo cà-sa này’
Hậu
tôn giả dĩ pháp chuyển phó A-Nan :
Về sau, tôn giả truyền lại pháp ấn này, tức chánh pháp nhãn
tạng lại cho tôn giả A-Nan (Chú 1) ; tức trì tăng-già-lê
nhập Kê-Túc sơn nhập định : tôn giả Ma-ha Ca-Diếp mang
áo tăng-già-lê đi vào núi Kê Túc nhập định. Núi Kê Túc
thuộc tỉnh Vân Nam, Trung quốc ; dĩ sỉ Từ thị hạ sanh :
đẻ chờ ngày đức Phật Di-Lặc ra đời.
Bài Tán
Phá nhan vi tiếuĐề hồ độc dượcKim lan cà-saHà xứ an trướcTruyền cá thập maTương thố tựu thốƯơng họa nhi tônQuy mao thố giác
Phá
nhan vi tiếu, đề hồ độc dược : Đức
Phật cầm bông hoa, nhìn đại chúng, tôn giả rạng nét mặt mỉm cười. Đề hồ
vốn là một thứ sữa tuyệt diệu, nhưng chúng sanh thấy nó là thuốc độc.
Kim
lan cà-sa, hà xứ an trước :
Tấm áo cà sa vàng đó, để ở nơi nào ? Áo cà-sa vàng để
tại Vân Nam.
Truyền
cá thập ma, tương thố tựu
thố : Nói
là truyền, rốt ráo là truyền cái gì ? Thật ra thì chẳng có cái
gì hết, có chăng chỉ là hình thức vậy thôi. Số là chúng sanh
có chỗ chấp trước, do đó mà chấp vào sự truyền giao một
thứ gì đó, bởi vậy mới là ‘tương thố tựu thố’, từ
sai đến sai.
Ương
họa nhi tôn quy mao thố
giác :
Cũng vì lý do đó mà đời sau mới nẩy sanh sự tranh chấp y bát.
Đạo vốn không tranh, vậy mà họ tranh nhau để giao họa cho con
cháu về sau. Còn như chân chánh hiểu được pháp đó là nhiều
hay ít vậy ? Điều này có thể ví như lông rùa và sừng thỏ. Rùa
đen thì không có lông, thỏ thì không có sừng, nói trắng ra hoàn
toàn không có gì cả.
Bài KệLinh sơn niêm hoa truyền tâm ấnPhá nhan vi tiếu trực thừa đươngTổ tổ pháp đăng chiếu sa giớiTăng tăng huệ mạng mãn đại thiênKim sắc đầu đà cà sa tràngDi Lặc tôn Phật tục thánh điềnMa-ha Ca Diếp công huân đạiTận vị lai tế ân vô biên
Nay
ta có mấy câu kệ tụng mới làm để ta giảng cho các vị nghe :
Linh
sơn niêm hoa truyền tâm ấn :
Câu này nói tới hội Linh Sơn khi đức Phật Thích-ca cầm một bông
hoa lên truyền tâm ấn. Đây chẳng phải là một hành động tùy
tiện, mà là một sự biểu hiện pháp của đức Phật, thử xem
trong đại chúng có ai hiểu ý gì không ?
Lúc ấy chẳng ai hiểu được ý nghĩa vi diệu này.
Phá
nhan vi tiếu trực thừa đương :
Duy có tôn giả Ca-Diếp là nở mặt mỉm cười, tỏ bày ý
nguyện gánh vác việc giao phó, tức là đảm đương trách nhiệm
lưu truyền dòng pháp cho đời sau. Tôn giả hiểu ngay như vậy,
đó là ý nghĩa của chữ ‘trực thừa đương’.
Tổ
tổ pháp đăng chiếu sa giới :
Các tổ sư truyền y bát cho nhau, lấy tâm ấn âm, đó là nghĩa
lưu truyền dòng pháp hay giữ cho ngọn đèn pháp không bị tắt
(pháp đăng bất diệt). Ngọn đèn tuy là nhỏ nhưng ánh sáng
lại truyền xa, thế giới nào cũng tới cả, nhiều như số cát
sông Hằng vậy.
Tăng
tăng huệ mạng mãn đại thiên :
Huệ mạng của tăng cũng là huệ mang Phật, cũng là huệ mạng
pháp. Mỗi vị tăng mang đủ huệ mạng của Phật, pháp, tăng, nên
Phật pháp ở khắp mọi nơi, cùng khắp đại thiên thế giới.
Kim
sắc đầu đà cà sa tràng :
Nói kim sắc đầu đà là chỉ tôn giả Ma-ha Ca-Diếp. Ngài gìn
giữ tấm áo cà-sa, dựng cờ pháp, để chờ ngày giao áo đó cho
đức Phật tương lai là tôn Phật Di Lặc.
Di
Lặc tôn Phật tục thánh thiên :
Đức Phật hạ sanh trong tương lai là Ngài Di Lặc sẽ tiếp tục
công tác hành trì cùng một thứ đạo của chư Phật (chư Phật
đạo đồng).
Ma-ha
Ca Diếp công huân đại :
Đối với Phật pháp thì công lao của tôn giả Ma-ha Ca-Diếp
thật là lớn lao, không ai sánh bằng. Chính đức Phật cũng đã
công khai gọi tôn giả là một đại đệ tử bậc nhất.
Tận
vị lai tế ân vô biên :
Ơn đức của tôn giả thiệt là vô cùng lón lao, không thước nào
đo được, cho nên chúng ta là đệ tử của Phật, là giáo đồ
của Phật trong tương lai không làm sao có thể báo đáp lại cho
vừa.
Thượng
nhân Tuyên Hóa giảng ngày 15 tháng 10 năm 1983
Chú
Thích (1) :
Xem ‘Cảnh Đức Truyền Đăng Lục’ quyển 1
.
. . . Kinh Niết Bàn nói : Lúc ấy đức Thế Tôn sắp nhập
niết-bàn, Ca-Diếp không có mặt trong hội chúng. Phật bảo các
đại đệ tử : ‘Khi nào Ca-Diếp đến, dặn Ca-Diếp tuyên
dương chánh pháp nhãn tạng.’ Lúc bấy giờ Ca-Diếp đương ở
trong hang Tân-bát-la, núi Kỳ-xà-quật, thấy một nguồn sáng
rực, tức thời vào định, dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy đức
Thế Tôn nhập niết bàn ở bên sông Hy-liên. Tôn giả bảo các
đồ chúng : ‘Như Lai vào niết-bàn, mau quá vậy thay !’ Tôn
giả liền đi đến nơi hai cây, khóc rất là bi thiết. Nằm trong
kim quan Phật duỗi hai bàn chân ra cho thấy. Lúc ấy Ca-Diếp bảo
các tỳ-kheo rằng : ‘Đức Phật đã trà-tỳ, xá-lợi kim cương
chẳng phải việc của chúng ta ; việc chúng ta là kết tập pháp
nhãn, không để cho nó bị tuyệt.’ Tôn giả nói bài kệ rằng :
Đệ tử Như LaiChớ vội niết bànNgười có thần thôngPhải đến kết tập.
Như
vậy tất cả những ai đã chứng thần thông đều tới thành Vương
Xá, núi Kỳ-xà-quật, tụ tập trong hang Tân-bát-la.. Lúc đầu vì
chưa sạch các lậu, nên A-Nan không được dự hội, nhưng sau đó
thì chứng được quả A-la-hán nên mới được vào dự. Ca-Diếp
bèn nói trước đại chúng : ‘Đây tỳ-kheo A-Nan, người
được nghe nhiều, ghi nhớ hết, có trí huệ lớn, luôn luôn theo
Như Lai, phạm hạnh thanh tịnh, Phật pháp nghe được như nước
rót vào bình không rơi rớt, Phật từng khen ngợi là thông tuệ
bậc nhất, nghĩ nên mời A-Nan kết tập tạng Tu-đa-la.’ Đại
chúng lặng yên. Ca-Diếp nói với A-Nan : ‘Nay ông hãy tuyên
pháp nhãn.’ A-nan nói xin nghe lời, quan sát lòng đại chúng rồi
nói kệ như sau :
Tỳ kheo các quyến thuộcVắng Phật chẳng trang nghiêmVí như trên không trungBầy sao thiếu vừng nguyệt.
Nói
xong bài kệ, tôn giả làm lễ các chúng tăng rồi bước lên pháp
tòa, nói : ‘Tôi nghe như vầy, có một thời đức Phật tại nơi
đó, thuyết giảng kinh đó. . . .cho đến trời, người
làm lễ phụng hành.’. Tôn giả Ca-Diếp hỏi các tỳ-kheo
: ‘Những điều ông A-Nan nói có đúng hay không ?’Tất cả đều
đáp rằng : ‘Không sai những gì đức Thế Tôn đã dạy.’
Ca-Diếp nói với A-Nan : ‘Ta chẳng ở đây lâu, nay ta giao phó chánh
pháp nhãn tạng cho ông, ông phải khéo gìn giữ. Hãy nghe ta nói bài
kệ :
Các pháp xưa nay phápKhông pháp không phi phápTại sao trong một phápCó pháp, có phi pháp ?
No comments:
Post a Comment