Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ mười bốn: BỒ-TÁT LONG THỌ
(Nagarjuna)
Tôn
giả, Tây Thiên
Trúc quốc
nhân. Nhân Thập tam tổ
hành
hóa chí
bỉ, Long Thọ xuất
nghênh viết:
“Thâm
sơn cô tịch, long mãng
sở cư; đại đức
chí tôn,
hà uổng thần túc?” Tổ viết: “Ngô phi chí tôn, lai phỏng
hiền giả.” Long
Thọ mặc
niệm, Tổ tri
kỳ ý. Long Thọ hối
tạ, Tổ tức
dữ độ thoát, cập ngũ
bách long
chúng câu, thọ cụ giới, phó dĩ đại
pháp. Đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí
Nam
Ấn Độ. Bỉ quốc chi nhân đa tín phúc nghiệp, Tổ vị
thuyết Phật
tánh nghĩa,
chúng văn, tất hồi sơ
tâm. Phục ư
tọa, hiện thân
như mãn
nguyệt luân.
Chúng trung hữu Ca-na-đề-bà viết: “Thử thị Tôn
giả, hiện Phật tánh thể
tướng, dĩ thị ngã
đẳng.” Hậu
phó Pháp ư Ca-na-đề-bà dĩ, nhập nguyệt
luân tam
muội, quảng hiện
thần biến, ngưng nhiên
thị tịch.
Dịch
:
Bồ-
tát Long Thọ người Tây Thiên Trúc, nhân khi Tổ thứ mười
ba (Ca-tỳ-ma-la) đến đây hoằng hóa, Ngài đến nghinh tiếp và
thưa:
-
Nơi núi sâu vắng vẻ, là chỗ hang động của rồng rắn, đại
đức là bậc chí tôn, vậy chẳng là uổng công thần túc
của Ngài sao? Tổ bảo:
-
Ta chẳng phải chí tôn, ta đến là để thăm hỏi hiền giả.
Ngài
Long Thọ nghĩ thầm (trong
lòng).
Tổ biết Ngài nghĩ gì. Ngài xin sám hối tạ tội. Tổ liền
cho Ngài cùng năm trăm đồ chúng xuất gia, truyền giới cụ túc
và truyền đại pháp cho Ngài. Sau khi đắc pháp Ngài liền du
hóa đến Nam Ấn Độ. Dân chúng ở đây phần nhiều đều
tin phước nghiệp, nên Ngài dạy về nghĩa Phật tánh, nghe
xong họ đều tin theo. Thế rồi, Ngài
trở lại ngay tòa hiện thân như trăng tròn. Bấy giờ,
trong chúng có Ca-na-đề-bà nói: ‘Ngài hiện thể tướng
của Phật tánh để chỉ dạy chúng ta’.
Về
sau, Ngài phó pháp cho tôn giả Ca-na-đề-bà (Kanadeva) rồi
nhập tam-muội Nguyệt luân, hiện nhiều thứ thần biến rồi
an nhiên thị tịch.
Tán
viết :
Phật
tánh chi
nghĩa
Phi hữu
vô tướng
Hiện tam
muội luân
San
hô nguyệt thượng
Thị khắc
gia nhi
Bất
lạc thú
hướng
Yết
khước song
my
Dịch
:
Nghĩa
của Phật tánh
Chẳng
tướng có, không
Hiện
trăng tam-muội
Vầng
trăng san hô
Đúng
nếp gia phong
Không
lọt thứ bậc[2]
Đôi
mày vừa nhướng
Một
nhát trúng hai
Hoặc
thuyết kệ viết :
Thiên
Trúc thập tứ tổ
truyền tâm
Long
cung tầm bảo thủ đại kinh
Pháp
giới vi
thể vô
biên tế
Hư
không thị
dụng hữu hà ngân
Bao
la vạn vật hàm
chúng diệu
Quyển
tàng nhất mật huýnh căn trần
Hỏa
trạch nguy
hiểm hưu lưu luyến
Thế
Tôn thọ
hạ kiến minh
tinh[3]
(Tuyên
Hóa Thượng Nhân tác)
Dịch
:
Tổ
thứ mười bốn được truyền tâm
Long
cung tìm báu được kinh thâm
Pháp
giới là thể không ngằn mé
Hư
không là dụng có chi tâm
Bao
la vạn tượng nhiều vi diệu
Gồm
thâu yếu chỉ thoát mê lầm
Nhà
lửa hiểm nguy đừng lưu luyến
Phật
tọa Bồ đề thấy sao mầu
(Tuyên
Hóa Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn
giả, Tây Thiên
Trúc quốc
nhân:
Vị Tôn giả này là Bồ-tát
Long Thọ (chú
1), tức Tổ thứ mười bốn của Ấn Độ, người miền Tây
Ấn.
Nhân
Thập tam tổ
hành
hóa chí
bỉ:
Tổ thứ mười ba giáo hóa chúng sinh, đến nước Tây Thiên
Trúc. Long
Thọ xuất
nghênh viết:
“Thâm sơn
cô tịch, long mãng
sở cư; đại đức
chí
tôn, hà uổng thần túc?”:
Tôn giả Long Thọ tu hành ở nơi này, nên ra nghênh tiếp Tổ
và thưa: “Chỗ này non cao, núi thẳm, vô cùng vắng vẻ và
trơ trọi, là hang ổ của loài rồng và mãng xà. Thưa Đại
đức! Ngài là bậc cao thượng và tôn quý rất mực, vậy
chẳng hay Ngài có đi lạc lối chăng ? Bước chân thần thánh
(thần túc) của Ngài đến đây chẳng là hoài công ư?”.
Chữ thần túc “神足”
ở đây không có nghĩa là
thần túc thông.
Tổ
viết: “Ngô phi chí tôn, lai phỏng
hiền giả.”:
Tổ thứ mười ba nói: “Ta không phải là bậc tôn quý, ta đến
đây để thăm hỏi người hiền đức.” Long
Thọ mặc
niệm:
Mặc niệm tức là nói thầm trong lòng. Ngài Long thọ nói
thầm, chẳng hạn như nói: “Ngài nói dối nhé! Ngài vốn là
một vị Tổ sư, mà Ngài nói không phải là bậc chí tôn”. Tổ tri
kỳ ý:
Tổ thứ mười ba biết trong lòng Ngài nghĩ gì.
Long
Thọ hối
tạ:
Bởi thấy Tổ biết hết những gì mình nghĩ trong lòng nên
Bồ-tát Long Thọ xin Tổ cho Ngài được sám hối tạ tội,
tự nhận sự lỗi lầm, đại khái như chúng ta thường nói
bằng tiếng Anh câu “I am sorry! I am very stupid!”
(Con
xin
lỗi!
Con thực ngu xuẩn!)
Tổ tức
dữ độ thoát, cập ngũ
bách long
chúng câu, thọ cụ giới, phó dĩ Đại
Pháp:
Tổ thứ mười ba độ cho Ngài, rồi độ luôn cả cho năm trăm
con rồng, lâu nay theo Ngài tu đạo. Tất cả đều thọ giới
Cụ túc và Tổ truyền pháp tâm ấn cho Ngài (chú 2). Đắc
pháp dĩ,
hành hóa
chí
Nam Ấn Độ:
Sau
khi đắc pháp, Bồ-tát Long Thọ du hóa đến
Nam
Ấn Độ. Bỉ
quốc chi nhân đa tín phúc nghiệp:
Con người nơi này, phần nhiều tu phước báo của trời người,
không biết cầu học Phật pháp. Họ chỉ biết gieo phước,
cầu phước. Tổ
vị thuyết Phật
tánh nghĩa:
Tổ dạy họ về Phật tánh, về nghĩa của tự tánh, gồm đầy
đủ vô lượng công đức và hết thảy mọi phước báu; chúng
văn, tất hồi sơ
tâm:
Sau khi nghe xong, mọi người đều bỏ Tiểu thừa tu theo Đại
thừa và hoàn toàn thay đổi tâm cầu phước trước kia của
họ.
Phục ư
tọa, hiện thân như mãn
nguyệt luân:
Ở trên tòa, Bồ-tát Long Thọ hiện thân như mặt trăng tròn,
thân Ngài sáng như ánh sáng của mặt trăng.
Chúng
trung hữu Ca-na-đề-bà viết: “Thử thị Tôn
giả, hiện Phật tánh thể tướng,
dĩ thị ngã
đẳng.”:
Lúc đó, trong đại chúng có Ca-na-đề-bà, về sau là Tổ
thứ mười lăm, nói rằng: “Cảnh tượng này là do Tôn giả
thị hiện, hiển bày thể và tướng của Phật tánh xưa nay,
nhằm giáo hóa chúng ta”.
Hậu
phó Pháp ư Ca-na-đề-bà dĩ, nhập Nguyệt
luân
tam
muội, quảng hiện
thần biến, ngưng nhiên
thị tịch.:
Về sau Bồ-tát Long Thọ truyền pháp cho Tổ thứ mười lăm-
Ca-na-đề-bà, rồi nhập định Nguyệt luân, thị hiện thần
thông, sau đó an nhiên thị tịch.
Bài
tán:
Phật
tánh chi
nghĩa, Phi hữu
vô tướng:
Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không.
Hiện tam
muội luân,
San hô nguyệt thượng:
Hiện tướng tam-muội như vầng mặt trăng, trông như mặt
nguyệt bằng san hô vậy.
Thị khắc
gia nhi, Bất
lạc thú
hướng:
Đúng là một bậc trượng phu con nhà Phật, chẳng theo lối nào
khác, cũng chẳng lạc vào thứ bậc nào.
Yết
khước song
my, Nhất
chùy lưỡng đương:
Đôi mày ấy đều không.
Đánh một tiếng kiền chùy có hai âm thanh phát ra, vậy đánh
thế nào nhỉ?
Bài
kệ:
Thiên
Trúc thập tứ tổ
truyền tâm:
Tổ thứ mười bốn là Bồ-tát Long Thọ, người Thiên Trúc
được truyền tâm ấn.
Long
cung tầm bảo thủ đại kinh:
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm của chúng ta chính là
do Bồ-tát Long Thọ đến long cung trong biển lớn lấy đem
về (chú 3).
Pháp
giới vi
thể vô
biên tế:
Bộ kinh lớn này lấy Pháp giới làm thể, không có
giới hạn.
Hư
không thị
dụng hữu hà ngân:
Lấy hư không làm dụng thì làm gì có vết tích? Dấu
vết gì cũng không có!
Bao
la vạn vật hàm
chúng diệu:
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này bao trùm cả vạn
vật, nghĩa là chứa đựng tất cả mọi thứ, không có cái gì
mà không nằm trong đó, chỗ nào cũng là diệu dụng.
Quyển
tàng nhất mật huýnh căn trần:
Thâu gọn lại, giấu kín tại một nơi nào bí mật, lúc
đó chẳng còn sáu căn, chẳng có sáu trần, mà xa lìa tất
cả!
Hỏa
trạch nguy
hiểm hưu lưu luyến:
Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới là một nhà
lửa, rất nguy hiểm, một khi mất thân người thì vạn kiếp
khó được lại.
Thế Tôn thọ
hạ kiến minh
tinh:
Lúc xưa, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi bên cội cây bồ-đề,
quyết không đứng dậy, đêm thấy sao sáng mà ngộ đạo. Chúng
ta nên biết, Đức Phật Thích-ca Mâu- ni tu hành khổ hạnh
thế nào mới thành Phật. Vì vậy, chúng ta tu hành cần phải
có chút tinh thần khổ hạnh, phải xả bỏ hết tất cả, đừng
sợ khổ. Quý vị nếu không xả được cái tử, tức không
đổi được cái sanh; không xả được cái giả, tức không
thể thành tựu được cái chơn; không chịu được khổ thì
không thể hưởng được phước.
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng ngày 20, tháng2, năm1979)
----------------------------------------------
Chú
1:
Về
nguồn gốc tên của Bồ-tát Long Thọ, trong Truyền Pháp
Chánh Tông Ký có ghi như sau:
Bồ-
tát Long Thọ người nước Tây Thiên Trúc, nhưng không rõ Ngài
họ gì. Có thuyết nói: Ngài xuất thân từ dòng Phạm chí,
rất thông minh, tài giỏi và trí tuệ siêu việt hơn người,
chẳng phải là người bình thường. Lúc trẻ, Ngài đã
thuộc bốn bộ kinh điển Vệ-đà, lớn lên lại giỏi về
thiên văn, địa lý, lại thông hiểu nghệ thuật[4]
của các dân tộc và biết những điều thần kỳ. Xưa, nước
Ngài có ngọn núi cao tên là Long Thắng, giống rồng thường
trú ngụ nơi này. Trên núi có nhiều cây lớn, các loài rồng
thường ở dưới bóng cây. Đến khi Bồ-tát giác ngộ, muốn
xuất gia, liền vào núi đó tu hành và ở bên. Về sau, khi đã
thông hiểu nghĩa lý sâu xa của Tam tạng kinh điển, Ngài
thuyết pháp cho loài rồng nghe, nên có hiệu là “Long Thọ”.
Chú
2:
Bài
kệ truyền pháp của Tổ thứ mười ba phó chúc cho Tổ thứ
mười bốn thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ
Nguyệt Lục ghi:
Phi
ẩn phi hiển pháp
Thuyết thị chân thực
tế
Ngộ
thử ẩn hiển pháp
Phi
ngu diệc phi trí[5]
Dịch:
Pháp
chẳng ẩn chẳng hiện
Là
bờ mé chân thật
Hiểu
pháp ẩn hiện này
Chẳng
ngu cũng chẳng trí
Chú
3:
Sự tích Bồ-tát Long
Thọ vào long cung lấy kinh, nay căn cứ vào Phó Pháp Tạng Nhân
Duyên Truyện, lược thuật như sau:
……Bồ-tát
Đại Long dùng thần lực dẫn Bồ-tát Long Thọ vào long cung
trong biển lớn, mở hòm bảy báu, lấy kinh Phương Đẳng Đại
Thừa thậm thâm vi diệu và vô
lượng diệu pháp cất giữ trong long cung trao cho Bồ-tát Long
Thọ. Trong chín mươi ngày ở long cung Bồ-tát Long Thọ thông
hiểu rất nhiều. Ngài lại đi sâu vào kinh tạng, lãnh hội
được ý nghĩa vi diệu,
được lợi ích lớn và thọ dùng vô cùng.
Long
vương biết tâm niệm của Ngài, hỏi: “Ngài đọc hết kinh
chưa?” Bồ-tát Long Thọ đáp: “Kinh điển trong kho tàng vô
lượng vô biên, tôi không thể xem hết được, nhưng những gì
tôi đã đọc thì đã vượt quá gấp mười lần kinh điển có
ở Diêm-phù-đề”.
Long
vương lại nói: “Kinh điển Thích-đề-hoàn-nhân cất giữ
trên trời Đao-lợi nhiều hơn long cung của ta gấp trăm ngàn
vạn lần; kinh điển của ta cất giữ nhất định không thể
so sánh với trên ấy”.
Sau
khi tụng đọc những kinh điển này, Bồ-tát Long Thọ hoát
nhiên thông suốt, hiểu rõ pháp nhất tướng, thông đạt
thật tướng, thấu triệt vô sinh, đầy đủ sinh nhẫn và pháp
nhẫn. Long vương biết Ngài đã ngộ đạo liền đưa Ngài
rời khỏi long cung……
[1]佛性之義 非有無相 現三昧輪 珊瑚月上
是克家兒 不落趣向 揭卻雙眉 一鎚兩當
是克家兒 不落趣向 揭卻雙眉 一鎚兩當
[2]
Thứ
bậc : Dịch
từ ngữ giai
thê (階梯).
Hai từ ngữ giai
thê và thú
hướng (趣向) thường
được dùng để chỉ các loại thiền của giáo môn, gồm
nhiều thứ bậc như tứ
thiền bát định chẳng
hạn. Còn như Thiền tông, thì khác hẳn, không
lọt vào thứ bậc, bởi đây là
pháp môn minh
tâm kiến tánh –
ngộ bổn tâm, thấy bổn tánh – đặt trọng tâm vào sự
khế ngộ, vào tri kiến, không còn một thứ bậc nào
nữa.
[3]天竺十四祖傳心 龍宮尋寶取大經
法界為體無邊際 虛空是用有何痕,
包羅萬物含眾妙 捲藏一密迥根塵
火宅危險休留戀 世尊樹下見明星
法界為體無邊際 虛空是用有何痕,
包羅萬物含眾妙 捲藏一密迥根塵
火宅危險休留戀 世尊樹下見明星
[4]
Nghệ thuật
藝術:
như văn học,
hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, vũ đạo, hý
kịch, điện ảnh, khúc nghệ...
悟此隱顯法 非愚亦非智
No comments:
Post a Comment