Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ thứ 24: TÔN
GIẢ
SƯ
TỬ
Tôn
giả, trung Ấn độ nhân. Vấn nhị thập tam Tổ: “Ngã
dục cầu đạo, đương dụng hà tâm?” Tổ viết:
“Nhữ dục cầu đạo, vô sở dụng tâm.” Viết: “Ký
vô dụng tâm, thùy tác Phật sự?” Tổ viết: “Nhữ
nhược hữu dụng, tức phi công đức; nhữ nhược vô
tác, tức thị Phật sự.” Nhân phó dĩ đại pháp. Du
hóa chí Kế Tân quốc, chuyển phó pháp dữ Bà-xá Tư-đa.
Hậu, vương bỉnh kiếm chí Tôn giả sở, vấn viết:
“Sư đắc uẩn không phủ?” Viết: “Dĩ đắc uẩn
không,” Vương viết: “Ly sanh tử phủ?” Viết: “Dĩ
ly sanh tử.” Vương viết: “Ký ly sanh tử, khả thí
ngã đầu.” Viết: “Ngã thân phi hữu, hà lận ư đầu!”
Vương tức huy nhẫn, trảm Tôn giả thủ, bạch nhũ dũng
cao sổ xích, vương chi hữu tý toàn diệc đọa địa.
Tôn
giả người Trung
Ấn Độ, có lần Tôn giả hỏi Tổ thứ 23:
- Thưa Ngài! Muốn cầu đạo con phải dụng tâm nào
?
Tổ
đáp :
- Cầu đạo thì không có chỗ dụng tâm.
-
Nếu không dụng tâm thì ai làm Phật sự ?
Tổ
bảo :
-
Ngươi nếu có dụng thì chẳng phải công đức. Không
làm đó mới là Phật sự.
Nhân
đây, Tổ truyền đại pháp cho Tôn giả. Tôn giả du hóa
đến nước Kế Tân (Kubha), phó pháp cho Bà-xá Tư-đa (Basiasita).
Một
hôm, vua cầm kiếm đến hỏi Tôn giả:
-
Thầy đã chứng đắc “năm uẩn đều không” chưa”
?
Tôn
giả đáp:
-
Đã chứng đắc.
-
Lìa sanh tử chưa ?
-
Đã lìa.
-
Đã lìa sanh tử thì có thể thí đầu cho ta chăng ?
Tôn
giả đáp :
-
Thân ta chẳng phải của ta thì tiếc gì cái đầu.
Vua
liền vung kiếm chặt đầu Tôn giả, lập tức sữa
trắng vụt lên cao mấy thước và tay phải của vua cũng
rơi xuống đất.
Tán viết:
Vô
tâm khả dụng
Đại
dụng hiện tiền
Khuếch
thông Phật lý
Xả
tận đệ thuyên
Án
kiếm dẫn cảnh
Hải
khẩu nan tuyên
Lô
hoa bạch tuyết
Thu
thủy trường thiên[1]
Bài tán:
Dùng
cái không tâm
Đại
dụng hiện tiền
Thông
suốt Phật lý
Dứt
bỏ buộc ràng
Vung
gươm chặt cổ
Đạo
lý như biển
Bông
lau tuyết trắng
Nước
thu ngập trời.
Hoặc
thuyết kệ viết:
Sư
Tử Tôn giả chí phi phàm
Cầu
pháp vấn đạo nguyện tâm kiên
Ưng
vô sở trụ ly chư tướng
Như
hữu công năng tức lạc biên
Ngũ
uẩn giai không phá mê chấp
Vạn
duyên phóng hạ liễu chân thuyên
Vương
kiếm trảm đầu bạch nhũ hiện
Hữu
tý đọa lạc thủy phục cam.[2]
Kệ
rằng:
Tôn
giả Sư-Tử chí phi phàm
Ý
định tâm kiên đạo vấn tham
Ưng
vô sở trụ lìa các tướng
Công
năng nếu có tức loạn đàm
Năm
uẩn đều không phá mê chấp
Vạn
duyên buông bỏ rõ chơn phàm
Kiếm
chúa bêu đầu phun sữa trắng
Tay
phải rớt đất mới chịu cam.
Giảng:
Vị
Tổ sư đời thứ 24 là Tỳ-kheo Sư Tử, tức Tôn giả
Sư Tử (Aryasimha).
Tôn giả chứng đắc Bồ-đề vô tướng, tất cả tự
tại, tất cả như như.
Tôn
giả, Trung Ấn Độ nhân: Ngài là người Trung
Ấn Độ.
Vấn
nhị thập tam Tổ sư: Gặp Tổ thứ 23 là
Hặc-lặc-na, Tôn giả hỏi đạo như sau: “Ngã dục cầu đạo, đương dụng hà tâm?” tức là
‘con muốn cầu đạo thì con dùng tâm nào?’ Với câu
hỏi đó, quý vị nghĩ thử xem, nếu chúng ta đặt mình
vào hoàn cảnh ấy thì chắc
sẽ xin Tổ dạy cho ta phải dùng cái tâm nào đặng
có thể thoát khỏi vòng sanh tử, ra khỏi cảnh luân
hồi, dứt sạch phiền não, chứng đạo Bồ-đề.
Tổ
viết: Nhữ dục cầu đạo, vô sở dụng tâm.
Tổ thứ 23 trả lời: “Ông muốn cầu đạo sao? Thật
sự ông nói muốn cầu đạo thì không cần dùng tâm gì
cả. Mà cần phải vô tâm, nếu ông hiểu được vô tâm
thì đó chính là đạo”.
Viết:
Ký vô dụng tâm, thùy tác Phật sự? Vì không
hiểu rõ ý nghĩa câu nói của Tổ nên Tôn giả dùng lý
lẽ để biện luận. Ngài nói rằng nếu đã nói không
cần dùng tâm gì thì ai làm Phật sự? Đối đáp như
vậy Ngài cho là biện tài vô ngại.
Tổ
viết: Nhữ nhược hữu dụng, tức phi công đức.
Tổ thứ 23 nói: “Nếu có chỗ dụng tâm thì còn có
sự tạo tác! Vậy là chưa tới được chỗ vô công
dụng; còn có sự chấp tướng, còn có hình tướng. thì
chẳng phải là công đức chân chính của tự tánh. Nhữ
nhược vô tác, tức thị Phật sự: Nếu như ông
không có chỗ dụng tâm, quét sạch mọi pháp, lìa mọi
tướng, đó mới thật là đại Phật sự. Không phải
chúng ta cứ ở đó niệm Phật, lễ Phật bái sám, dự
các khóa lễ này nọ, mới gọi là làm Phật sự. Chân
chánh tu đạo thì rốt ráo chẳng có gì hết, trừ
hết pháp, lìa hết tướng; một không thì tất cả đều
không, một lìa tất cả đều lìa, một tịnh tất cả
đều tịnh, một chính tất cả đều chính” (tảo
nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng; nhất không
nhất thiết không, nhất ly nhất thiết ly, nhất tịnh
nhất thiết tịnh, nhất chánh nhất thiết chánh).
Vừa nghe Tổ thứ 23 nói như vậy, Tôn giả Sư Tử
liền tỏ ngộ, vào được trí huệ Phật.
Nhân
phó dĩ đại pháp:
Thế là Tổ thứ 23 truyền đại pháp tâm ấn cho Tôn
giả (chú 1). Như vậy mỗi bài tôi đều nói đến ‘đại
pháp’. Đại pháp này mang một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong Phật giáo, pháp đó là pháp ‘truyền tâm
ấn Phật, dùng tâm ấn tâm”. Đức Phật nói: “Ta có
chính pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướng
vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, đã phó chúc cho
Ma-ha-ca-diếp!” Đó chính là “Đại pháp”.
Du
hóa chí Kế Tân, chuyển phó dữ Bà-xá Tư-đa:
Sau đó, Tôn giả Sư Tử du phương giáo hóa chúng sinh,
đến nước Kế Tân- tên một nước lúc bấy giờ, có
người nói đó là Vân Nam, có người nói là Tây-bá-lợi-á,
nhưng ở đây không cần khảo chứng về nó, tóm lại
đó là một nước lúc bấy giờ. Chính ở nước này
Tổ truyền pháp cho Tổ thứ 25- Tôn giả Bà-xá Tư-đa.
Hậu
vương bỉnh kiếm chí Tôn giả sở, vấn viết: Sư đắc
uẩn không phủ?
Sau ngày Tổ truyền pháp, gặp lúc bấy giờ
ở trong nước có hai người theo ngoại đạo, họ học
được nhiều huyễn thuật, mưu đồ phản loạn, ngụy
trang thành người xuất gia và lẻn vào cung vua. Sự
việc bại lộ nhưng vua lại hiểu lầm, cho đó là do
người xuất gia làm, nên hủy diệt Phật pháp.Một hôm,
vua cầm bảo kiếm đến chỗ Tôn giả Sư Tử hỏi: “Ông
chứng đắc năm uẩn đều không rồi chăng? Sắc,
thọ, tưởng, hành, thức của ông đều coi như không
chăng?”
Viết:
Dĩ đắc uẩn không. Vì Tỳ-kheo Sư Tử vốn không
nói vọng ngữ, cũng không khách sáo, nên khi vua đến
hỏi Ngài, Ngài trả lời chân thật: “Tôi đã đắc năm
uẩn đều không, quán chiếu thấy được năm uẩn đều
không; biết ‘Sắc tức là không, không chính là sắc;
thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy’”
Vương
viết: Ly sinh tử phủ?
Vua lại hỏi: “Ông đã lìa sinh tử chưa?” Có nghĩa
là ông không còn sinh tử chăng?
Viết:
Dĩ ly sinh tử. Ngài đáp: “Tôi đã thoát khỏi
sinh tử, không còn sinh tử !”
Vương
viết: Ký ly sinh tử, khả thí ngã đầu. Vua
liền nói: “Sinh tử đối với ông đã không thành
vấn đề, ông đã liễu
thoát sinh tử, vậy ông có thể bố thí cho ta cái
đầu được không?
Viết:
Ngã thân phi hữu, hà lận ư đầu?
Tỳ-kheo Sư Tử đáp: “Ngay cả thân thể tôi đều không,
thì cái đầu có nghĩa gì mà không cho được? Đại vương
cứ việc chém đi!”
Vương
tức huy nhận đoạn Tôn giả đầu, bạch nhũ dũng cao
sổ xích: Vua
liền vung kiếm chém một nhát, đầu Tỳ-kheo Sư Tử rơi
xuống đất. Nhưng khi đầu Tôn giả vừa rơi xuống,
thì cổ Ngài máu không tuôn chảy mà một dòng nước
trắng như sữa bò vọt ra, cao đến vài thước. Quý
vị nghĩ xem! Đó là ý gì? Đợi quý vị nghĩ thông
suốt rồi, xin nói lại cho tôi biết!
Vương
chi hữu tý thi diệc đọa địa: Tay
phải nhà vua cầm kiếm chém đầu Tỳ-kheo Sư Tử.
Vậy là vua đã chém một vị thánh, phạm một trọng
tội trong số 5 tội vô gián[3]
là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng
đoàn, làm thân Phật chảy máu. Bởi đó mà khi vừa chém
xong thì cánh tay phải của vua cũng đứt đoạn, rớt
ngay xuống đất.
Bài tán:
Vô
tâm khả dụng, đại dụng hiện tiền: Biết dùng
cái vô tâm thì hiệu dụng của nó sẽ là tột cùng,
đó là cảnh giới ‘vô công dụng đạo’, không
dụng tâm mà không chỗ nào là không có hiệu
dụng (vô dụng vô bất
dụng), chính là chỗ đại dụng hiện tiền, là Đại
tạo Đại hóa.
Khuếch
thông Phật lý, xả tận đệ thuyên: Bừng sáng
tức khắc đạo lý của Phật, gạt sạch mọi cặn
bả, vứt bỏ các dây rễ, lột hết da, bóc sạch vỏ,
tóm lại các thứ không cần thiết đều gạn lọc
hết.
Án
kiếm dẫn cảnh, hải khẩu nan tuyên: Vua cầm
kiếm đến chỗ Ngài; Ngài liền đưa cổ ra, chờ vua
giết, vua chém. “Hải khẩu nan tuyên” nói lên là
tinh thần đại vô úy, không chấp ngã, tinh thần liễu
sinh thoát tử, hiện bày chân lý “năm uẩn đều không”.
Hải khẩu nghĩa là
miệng rộng như biển. Cho dù có hải khẩu để tuyên
thuyết đạo lý thì cũng không thể nói lên hết tinh
thần này.
Lô hoa bạch tuyết, thu thủy trường thiên:
Hoa lau màu trắng, tuyết trắng cũng màu trắng,
như nước mùa thu và bầu trời mênh mông, tất cả đều một màu, đều là bản
sắc của thiên nhiên. Đó là cảnh:
Ráng chiều, cò lẻ cùng bay
Nước thu liền với trời mây một mầu[4]
Đúng là một cảnh sắc của ‘Đại tự nhiên’.
Tỳ-kheo Sư Tử không chảy máu mà chảy một
thứ nước màu trắng, quý vị nghĩ
kỹ thử xem, đó là ý nghĩa gì?
Quý
vị nói Ngài là người giác ngộ chứng quả; người vô
lậu, không còn niệm dục, đoạn dục trừ ái, đạt
đến cảnh giới không mong cầu- cũng chính là cảnh
giới không
tranh giành, không tham lam, không mong cầu, không riêng tư,
không tự lợi.
Quý
vị không nên cho rằng năm thứ “Tài, sắc, danh,
thực, thùy” là đơn giản. Trước khi chưa chứng
quả, năm thứ này không thể đoạn được; sau khi
chứng quả, cũng không nhất định đã đoạn hết hoàn
toàn. Vì vậy, Vạn Phật Thánh Thành chúng tôi giảng
giải cho quý vị diệu
pháp chứng quả; quý vị không nên coi thường những
pháp đó. Quý vị bảo: “Tôi hiểu rồi! Không tranh ư?
Thì tôi cũng chẳng tranh giành !” Nói vậy nhưng thử
hỏi trong lòng quý vị có thật sự không tranh chăng?
Rồi đối vấn đề không tham, quý vị cũng bảo
chẳng tham. Tuy nhiên, trong tâm quý vị có phải như
thế chăng? Bề ngoài thì có vẻ như vậy, nhưng bên
trong thì sao? Nói bên
trong không tham tức là nói bên trong tự tánh không tham
; bên trong của tám thức phải thật sự không tham, không
cầu, không tự tư, không tự lợi, phải như vậy mới
đúng. Bên trong và bên ngoài phải là như một, bên
trong và bên ngoài thảy đều trong sạch, vậy mới có
thể chấp nhận được!
Vì
sao Tỳ-kheo Sư Tử có sữa trắng vọt cao đến mấy thước
như vậy? Vì máu huyết của Ngài đều biến thành màu
trắng; máu vốn màu đỏ nhưng hiện tại biến thành màu
trắng - Các vị thánh nhân chứng quả đều như vậy!
Vì vậy, quý vị không thể nhận giả làm chơn, không
thể nói: “Tôi là người chứng quả!” Nếu quý vị
chứng quả, trước tiên người ta sẽ chặt đầu quý
vị xem có sữa trắng vọt ra không? Ái chà! Chỉ một
điểm này, chắc quý vị không dám thừa nhận mình
chứng quả! Vì chứng quả mà không có đầu, thì quả
chứng ấy không có ý nghĩa, vì có ăn uống được gì
đâu! Vì vậy không nên mạo muội cho mình là người
chứng quả, chỉ háo danh một chút mà rất nguy hiểm
đấy.
Nếu người lúc đã đạt đến thân thể dương
khí thuần nhất thì máu biến thành màu trắng, đó là
chứng minh người đã chứng quả thánh. Ngài Thần
Quang Tổ thứ hai của Trung Hoa cũng bị chính phủ
chặt đầu, vì họ cho Ngài là người điên. Khi người
ta chặt đầu Ngài thì sữa trắng vọt ra. Đó là
giải thoát chân chính, không chấp trước, cũng chính là
vô lậu.
Vô
lậu là không có dục lậu, sắc lậu, tài lậu, danh
lậu, tham lậu, thùy lậu, tất cả các lậu đều không!
Đạt đến cảnh giới vô lậu này thì chứng được lậu tận thông, đây là thần thông khó đắc nhất.
Trong sáu thần thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông đều
dễ đắc, chỉ có lậu tận thông là rất khó đắc. Lúc
vị nào đắc lậu tận thông thì lúc ấy máu trên thân
thể người ấy đều biến thành màu trắng.
Kệ
rằng:
Vì
vậy tôi lại làm một bài kệ, để tán thán Tôn giả
Sư Tử. Câu mở đầu là:
Sư
Tử Tôn giả chí phi phàm: Chí nguyện Tôn giả Sư
Tử người thường không thể sánh được, Ngài là
một người đặc biệt, đặc biệt đến mức độ
thế nào?
Cầu
pháp vấn đạo nguyện tâm kiên: Ngài đi tới đâu
cũng tìm cầu học pháp, hỏi đạo, tìm bạn cầu
thầy; đến nơi nào Ngài cũng hạ mình khiêm cung, siêng
năng hiếu học, không thẹn hỏi kẻ dưới mình. Không
kể khi gặp một nhân vật cao siêu như Tổ thứ 23,
gặp những người kém mình Ngài cũng không ngại hỏi
đạo cầu pháp. Ngài vì pháp quên mình, rất là tha
thiết với pháp, tâm nguyện
của Ngài như thế thật là kiên cố.
Ưng
vô sở trụ ly chư tướng: Ngài thỉnh vấn Tổ
thứ 23: “Dùng tâm gì để cầu đạo?” Tổ thứ 23
đáp: “Nên không chỗ trụ mà sinh tâm ấy”. Không dùng tâm, cũng chính là “Ưng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm” Ông không nên chấp tướng! Ông cho rằng nên
dùng tâm gì sao? Nếu Ông có chỗ dụng tâm, thì đó không
phải là vô công dụng đạo.
Như
hữu công năng tức lạc biên: Nếu quý vị có
dụng công thì rơi vào hai hoặc ba, có hoặc không,
tức là lạc vào nhị biên.
Ngũ
uẩn giai không phá mê chấp: Ngài đối với
sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không; Ngài đã phá
trừ năm uẩn phàm phu, không còn mê chấp.
Vạn
duyên phóng hạ liễu chơn thuyên: Dù vạn duyên
gì cũng không ngăn ngại! Vì không ngăn ngại nên không
sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, đạt đến
Niết-bàn cứu cánh, nên nói “liễu chân thuyên”
tức là hiểu rõ chân lý.
Vương
kiếm trảm đầu bạch nhũ hiện: Vua vung kiếm
chém đầu Ngài rơi xuống, sữa trắng từ chỗ bị chém
vọt cao mấy thước, điều này chứng tỏ Ngài là người
có công phu thật sự. Nếu quý vị hỏi: “Ngài đã
chứng quả, thì sau khi đầu rơi xuống, sao không tự
trở lại như cũ?” Có thể chứ, nhưng Ngài không làm
vậy. Vì sao? Vì Ngài làm vậy sẽ sinh chấp trước. Lúc
đó, Ngài thị hiện như vậy, vì Ngài nghĩ vị vua này
giúp mình thành tựu đạo nghiệp, làm một chứng cứ
cho chúng sinh. Đối với Tỳ-kheo Sư Tử, đầu Ngài có
rơi xuống hay không, ở đây không thành vấn đề.
Hữu
tý đọa địa thủy phục cam: Bấy giờ, tay
phải của vua cũng rơi xuống đất. Lúc ấy, vua mới
biết Ngài thật là một thánh nhân chứng quả! Hiện
tại ta phải chịu quả báo này! Tuy tay phải rơi
xuống đất, nhưng trong lòng vua rất kính phục; kính
phục thế giới này thật sự còn có thánh nhân và người
truyền tâm ấn của Phật. Vua tâm phục khẩu phục, không
một chút phản kháng.
Quý
vị nói thử coi! Vì sao tay phải vua bị rơi xuống?
Phải chăng Tỳ kheo Sư Tử biết võ công, phun sữa
trắng ra có khác gì người luyện bảo kiếm, chặt đứt
đoạn cánh tay của kẻ địch để báo thù? Tôi chẳng
hiểu có phải vậy không? Quý vị thử suy nghĩ đi! Hôm
nay tôi hỏi quý vị lắm chuyện như vậy đó! Hay là lúc
đó biết đâu cả tám bộ trời, rồng trông thấy
vậy cảm thấy không vui, nghĩ rằng : ‘À! Vị vua này!
Dám mang cả một thánh nhân ra để làm vật thí
nghiệm!’ Bởi vậy mà họ đã chặt cánh tay phải
của nhà vua, một hành động hộ pháp.
Tuyên
Công Thượng Nhân giảng ngày 7, tháng 9, năm 1981
Chú
1:
Kệ truyền pháp của Tổ thứ 23 phó chúc cho Tổ thứ
24 thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ
Nguyệt Lục ghi như sau:
Nhận
đắc tâm pháp tánh
Khả
thuyết bất tư nghị
Liễu
liễu vô khả đắc
Đắc
thời bất thuyết tri.[5]
Dịch:
Lúc
ngộ được tâm tính
Mới
nói không nghĩ bàn
Rõ
ràng không thể đắc
Lúc
đắc không nói biết
[1]無心可用 大用現前 廓通佛理 捨盡第筌
按劍引頸 海口難宣 蘆花白雪 秋水長天
按劍引頸 海口難宣 蘆花白雪 秋水長天
[2]師子尊者志非凡 求法問道願心堅
應無所住離諸相 如有功能即落邊
五蘊皆空破迷執 萬緣放下了真詮
王劍斬頭白乳現 右臂墮地始服甘
應無所住離諸相 如有功能即落邊
五蘊皆空破迷執 萬緣放下了真詮
王劍斬頭白乳現 右臂墮地始服甘
[3]
Tội vô
gián: tội mà hậu quả có
thể bị đầy xuống địa ngục vô gián, hay
còn gọi là địa ngục A-tỳ
[4]
Hai câu này
là chữ lấy trong bài phú
Đằng Vương Các Tự của Vương Bột đời Sơ
Đường, nguyên văn là “lạc
hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng tràng thiên
nhất sắc”
.
[5]認得心性時 可說不思議
了了無可得 得時不說知
了了無可得 得時不說知
No comments:
Post a Comment