Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ chín: TÔN GIẢ PHỤC-ĐÀ-MẬT-ĐA
Tôn
giả, Đề Già
quốc
nhân. Niên dĩ
ngũ
thập, khẩu vị thường ngôn,
túc vị
tằng lý.
Nhất nhật, kiến Bát Tổ sở thuyết: “Chân ngô
đệ tử!” Tôn giả tức
khởi lễ
bái vấn
viết: “Phụ
mẫu phi
ngã thân,
thùy
thị tối thân giả? Chư Phật phi ngã đạo, thùy thị tối đạo
giả?” Tổ viết: “Nhữ ngôn dữ tâm thân, phụ mẫu
phi
khả
tỷ; nhữ hành
dữ đạo hiệp, chư Phật
tâm tức
thị.” Tôn
giả văn
kệ dĩ, tiện hành thất bộ. Tổ viết: “Thử tử tích tằng
trị Phật phát
nguyện, lự phụ mẫu nan xả, cố bất
ngôn bất lý nhĩ!” Trưởng
giả toại
xả
xuất gia. Tổ nãi
thế lạc thọ cụ, phó dĩ Đại
Pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ,
chí trung Ấn Độ hành
hóa, chuyển phó
pháp ư Nan
Sinh.
Tức nhập diệt tận tam
muội, nhi bát
Niết-bàn.
Dịch
:
Tôn
giả Phục-đà-mật-đa người xứ Đề-già, đã năm mươi tuổi
mà miệng chưa từng nói một lời, chân chưa từng đi một bước.
Một hôm, gặp Tổ thứ tám (Phật-đà-nan-đề), nghe Tổ nói,
Phục-đà-mật-đa đúng là đệ tử của Tổ, Tôn giả liền đứng
dậy, đỉnh lễ Tổ
và nói kệ rằng:
Cha
mẹ chẳng phải thân
Thì
ai là thân nhất?
Phật
chẳng là đạo ta
Thì
đạo ai hay nhất?
Tổ
đáp:
Lời
cùng tâm ngươi thân
Cha
mẹ không thân bằng
Hành
của ngươi hơp đạo
Đó
là tâm chư Phật
Nghe
kệ xong, Tôn giả liền đi bảy bước.
Tổ
bảo:
Đứa
bé này xưa đã từng gặp Đức Phật và phát nguyện xuất gia nhưng
sợ cha mẹ không cho phép nên chẳng nói, chẳng đi vậy!
Nghe
Tổ nói, cha mẹ Ngài liền cho con xuất gia. Tổ cho Ngài xuống tóc,
thụ giới Cụ
túc và truyền trao Đại Pháp. Sau khi đắc pháp, Tôn giả đến
miền Trung Ấn Độ hành hóa và truyền pháp cho Nan Sinh, rồi
nhập diệt tận định mà vào Niết-bàn.
Tán
viết :
Ngữ
vị xuất
khẩu
Ngôn mãn
thiên hạ
Túc
vị xích hộ
Hư
không biến
khóa
Tôn
quý bất
cư
Phật
Tổ tịnh
giá
Chu
hành
thất bộ
Dĩ
thành
thoại bá
Dịch
:
Miệng
chưa từng mở
Nói
khắp mọi người
Chân
chưa từng bước
Đi
khắp hư không
Chẳng
màng tôn quý
Phật
Tổ đồng hành
Chân
đi bảy bước
Thành
một giai thoại.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Bất
ngôn bất lý thừa nguyện lai
Xuân
huyên nan
xả thể
thân hoài
Hiếu
thân hiếu
tâm hiếu bản
tính
Kính
sư kính
Tổ kính Phật đài
Độc
cụ dị
bẩm trạch
pháp nhãn
Xảo
ngộ lương phạm thức anh
tài
Nhất
ngôn hoán tỉnh chân đệ
tử
Thủ
vũ túc đạo thán
kỳ tai![1]
Tuyên Hóa Thượng Nhân tác,
nhất cửu thất bát niên tam nguyệt ngũ nhật.
Dịch
:
Chẳng
nói chẳng đi bởi nguyện sinh
Song
thân chẳng nỡ dứt thâm tình
Thân
tâm bản tánh đều tròn hiếu
Thầy
Tổ, Phật-đà thảy kính tin
Bẩm
tánh phú cho tài chọn pháp
Khéo
thay anh tuấn gặp thầy tinh
Một
lời thức tỉnh ngay trò giỏi
Mừng
rỡ ngợi khen thật đáng kinh!
(Ngày
5, tháng 3, năm 1978 Tuyên Công Thượng Nhân)
Giảng:
(Phần
này bản cảo bị thất lạc, nên đệ tử bổ sung phần giảng
bạch thoại).
Tôn
giả, Đề Già
quốc
nhân. Niên dĩ
ngũ
thập, khẩu vị thường ngôn,
túc vị
tằng lý:
Tổ thứ chín-Tôn giả Phục-đà-mật-đa, họ Tỳ-xá-la,
người nước
Đề
Già.
Đề
Già
là tên gọi một nước của Ấn Độ thời xưa. Đến năm mươi
tuổi mà Ngài chưa nói được, cũng không đi được. Ngài có
thật là không biết nói, không biết đi chăng?
Đó là vì sự tu hành đời trước của Ngài, không thích hợp
với pháp dơ uế của thế gian, nên chân Ngài không bước ra
khỏi cửa, miệng không nói một lời đúng hay sai.
Nhất nhật, kiến Bát
Tổ sở thuyết: “Chân ngô
đệ tử!”:
Bấy giờ, Tổ thứ tám-Phật-đà-nan-đề lãnh đạo đồ chúng,
hành hóa đến nước Đề Già. Lúc gần đến gia đình họ Tỳ-xá-la,
thấy trên mái nhà của họ có ánh sáng trắng bay vút lên, Ngài
liền nói với đồ chúng: “Gia đình này nhất định có thánh
nhân, người ấy không nói được, thật đúng là căn khí Đại
thừa. Người ấy không bước được, vì biết mỗi bước đi
sẽ va chạm đến những thứ dơ uế”. Sau khi Tổ thứ tám nói
xong, trưởng giả họ Tỳ-xá-la
liền bước ra, đỉnh lễ Tổ và mời vào nhà. Ông ta hỏi Tổ
cần giúp đỡ gì không, Tổ nói: “Tôi cần một người làm
thị giả”. Trưởng giả họ Tỳ-xá-la
chỉ Phục-đà-mật-đa nói: “Dạ thưa Ngài! Con tôi, tên là
Phục-đà-mật-đa, năm nay đã năm mươi tuổi rồi, nhưng từ trước
đến nay, miệng không nói một lời, chân chưa hề chạm đất, nó
có thích hợp làm thị giả của Ngài không?” Tổ nói: “Nếu
đứa bé giống như lời ông nói thì nó đích
thật
là đồ đệ của tôi rồi!”
Tôn
giả tức
khởi lễ
bái vấn
viết:
Vừa nghe Tổ nói, Tôn giả Phục-đà-mật-đa lập tức đứng
dậy, đỉnh lễ Tổ và thưa. Quý
vị thấy chăng? Không những
Ngài đứng dậy mà còn cất tiếng nói nữa. Quả thật Ngài là
người cầu pháp hết sức cung kính!
“Phụ
mẫu phi
ngã thân,
thùy thị tối thân
giả?:
“Nếu
cha mẹ không phải là người thân thiết, thì ai là người thân
nhất?
Chư
Phật phi ngã đạo, thùy thị tối đạo giả?”:
Nếu chư Phật không phải là thầy hướng dẫn ta, thì ai
mới là người truyền đạo cho ta tốt nhất?”
Tổ viết:
Tổ thứ tám nói: “Nhữ
ngôn dữ tâm thân, phụ mẫu
phi
khả
tỷ;:
Nếu như lời nói của ông mà theo sát tâm ông, hay nói khác,
lời nói và tâm như một thì cha mẹ cũng không thân thiết hơn
điều này;
nhữ
hành
dữ đạo hiệp, chư Phật
tâm tức
thị”:
Nếu hành vi của ông và đạo hợp nhất thì đạo tâm của ông
cũng chính là tâm của chư Phật rồi.”
Tôn giả văn
kệ dĩ, tiện hành thất bộ:
Sau khi nghe Tổ thứ tám nói một bài kệ, Tôn giả Phục-đà-mật-đa
liền đi một bước đến bảy bước. Đi bảy bước này là tướng
“xuất thai” trong “tám tướng thành đạo”. Từ xưa đến
nay chư Phật giáng thần đều đi bảy bước. Tuy Ngài không
phải mới ra đời, nhưng trước đây Ngài chưa từng đi, vì
vậy bây giờ Ngài vừa đặt chân xuống đất, liền đi bảy bước
(Chú 1).
Tổ viết: “Thử tử
tích tằng trị Phật phát
nguyện, lự phụ mẫu nan xả, cố bất
ngôn bất lý nhĩ!”.
Tổ thứ tám nói: “Đứa bé
này từ xưa đã từng gặp Đức Phật và phát nguyện xuất gia
tu hành, nên không thọ dụng các thứ ô nhiễm. Nhưng sợ cha mẹ
không cho xuất gia, nên Ngài không nói cũng không đi.”
Trưởng
giả toại
xả
xuất gia:
Nghe Tổ thứ tám nói như vậy, cha mẹ Ngài dù thương con cũng đành
chấp nhận cho Ngài xuất gia tu hành.
Tổ nãi
thế lạc thọ cụ, phó dĩ Đại
Pháp:
Tổ thứ tám liền cạo tóc, trao giới Cụ
túc và truyền pháp môn tâm ấn tâm cho Ngài (Chú 2).
Tôn giả đắc pháp dĩ,
chí trung Ấn Độ hành
hóa, chuyển phó
pháp ư
Nan
Sinh:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả đi khắp nơi hoằng dương Phật pháp.
Đến Trung Ấn Độ, Ngài truyền pháp cho Nan Sinh. Nan Sinh chính là
Tổ thứ mười, vốn có tên là Hiếp Tôn giả. Vì mẹ Ngài sinh
Ngài rất khó, Ngài ở trong thai mẹ sáu mươi năm mới sinh ra.
Tức nhập diệt tận tam muội, nhi bát
Niết-bàn:
Sau đó, Tổ thứ chín nhập định diệt tận vô dư rồi vào
Niết-bàn.
Bài
tán:
Ngữ
vị xuất
khẩu, Ngôn mãn
thiên hạ:
Tuy Ngài chưa từng nói nhưng lời của Ngài đã truyền
khắp thiên hạ. Ở đây nói Ngài thuyết pháp tương ưng với đạo,
đúng với đạo.
Túc
vị xích hộ,
Hư
không biến
khóa:
Tuy Ngài chưa từng đi nhưng bước chân của Ngài đã đi khắp hư
không.
Tôn
quý bất
cư, Phật
Tổ tịnh
giá:
Ngài là bậc rất tôn quý,
nhưng Ngài không chấp vào điều đó, không một chút kiêu ngạo
tự mãn. Công đức của Ngài có thể sánh ngang với chư Phật chư
Tổ.
Chu hành
thất bộ,
Dĩ
thành
thoại bá:
Ngài đi bảy bước như thế, câu chuyện này đã trở thành một
công án của Phật giáo, một giai thoại!
Bài
kệ:
Bất
ngôn bất lý thừa nguyện lai:
Tuy Ngài không nói, cũng không đi nhưng lại theo nguyện tái sinh và
muốn xuất gia tu hành.
Xuân
huyên nan
xả thể
thân hoài:
Sở dĩ Ngài giả ngu giả dại như vậy, chính vì Ngài biết được
lòng cha mẹ mình không nỡ cho Ngài xuất gia.
Hiếu
thân hiếu
tâm hiếu bản
tính:
Ngài thân cũng tận hiếu, tâm cũng tận hiếu, thậm chí bản tính
cũng tận hiếu.
Kính
sư kính
Tổ kính Phật đài:
Ngài kính Thầy, kính Tổ, Kính Phật.
Độc
cụ dị
bẩm trạch
pháp nhãn:
Đặc biệt là Ngài sẵn có con mắt chọn pháp, chớ
không phải tìm
thầy học
đạo một
cách tùy tiện.
Xảo
ngộ lương phạm thức anh
tài:
Điều may là gặp được bậc Thầy tài giỏi nên mới biết
Ngài là người anh tài, một trong hàng long tượng của Phật pháp.
Nhất
ngôn hoán tỉnh chân đệ
tử:
Một câu “đệ tử giỏi” của Tổ làm Ngài tỉnh ngộ.
Thủ
vũ túc đạo thán
kỳ tai!:
Lúc ấy, Ngài vô cùng phấn chấn vừa nói vừa đi. Vì vậy mọi
người vừa nghe công án này đều tán thán và kinh ngạc.
------------------------
Chú
1:
Tám tướng thành đạo là: Từ trời Đâu-suất giáng thần, trụ
thai, xuất thai, xuất gia, điều phục ma, thành đạo, chuyển pháp
luân, nhập Niết-bàn.
Chú
2:
Bài kệ truyền pháp của Tổ thứ tám phó chúc cho Tổ thứ chín
trong Cảnh Đức Truyền Lục và Chỉ Nguyệt Lục:
Hư
không vô nội
ngoại
Tâm
pháp diệc
như thử
Nhược
liễu hư
không cố
Thị
đạt chân như lý[2]
Dịch:
Hư
không không trong ngoài
Tâm
pháp cũng như vậy
Nếu
rõ được hư không
Đạt
đến lý Chân
Như.
No comments:
Post a Comment