Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tam
Tổ: Tôn Giả Thương Na Hòa Tu
Phiên
âm Hán Việt:
Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa, tại thai lục niên,
ứng thụy nhi sinh. Hậu xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn.
Nhân A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa lục chủng
chấn động, tôn giả đồng ngũ bách tiên nhân lễ A-nan túc, nhi
quỵ thỉnh viết : ‘Ngã ư trưởng lão, đương chứng Phật
pháp, nguyện thùy độ thóat.’ A-Nan tức biến Hằng hà vi kim địa,
vị thuyết đại pháp viết : ‘Tích Như Lai dĩ chánh pháp nhãn
phó Đại Ca-Diếp, chuyển phó ư ngã, ngã kim phó nhữ.’ Tôn
giả ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến phạm cung,
chuyển đại pháp luân. Hậu phó pháp dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn
Kết tân quốc Tượng Bạch sơn, hiện thập bát biến hỏa quang
tam muội, dụng phần ký thân.
Dịch :
Tổ
Thứ Ba Thương Na Hòa Tu
Tôn
giả nguyên là dân nước Ma-Đột-La, dòng Tỳ Xá Đa, ở trong
thai mẹ sáu năm, ứng vào điềm lành mà sanh ra đời. Về sau, tôn
giả xuất gia học đạo tiên ở núi Tuyết. Nhân khi tổ A-Nan
nhập diệt, núi sông đất bằng nổi lên sáu cách chấn động,
tôn giả dẫn năm trăm tiên nhân đến đảnh lễ dưới chân
tổ, quỳ xuống thỉnh rằng : ‘Chúng con phải chứng pháp
Phật tại nơi trưởng lão, nguyện xin trưởng lão độ thoát cho
chúng con.’ Tổ A-Nan liền biến sông Hằng thành
bình địa, bằng vàng, rồi thuyết pháp lớn rằng :
‘Xưa, đức Như Lai đem đại pháp nhãn trao cho tổ Đại
Ca-Diếp, rồi đại pháp nhãn lại chuyển đến ta, nay ta trao cho
ngươi.’ Chứng được pháp rồi, tôn giả hàng phục hai con
rồng lửa để xây đạo tràng và chuyển bánh xe pháp. Về sau tôn
giả truyền pháp lại cho Ưu Ba Cúc Đa, đi tới núi Bạch Tượng
nước Kế Tân, vào trong định hỏa quang mười tám cách biến
rồi lấy lửa đó đốt thân.
Tán
Ứng thụy nhi sinhChuyển diệu pháp luânNgũ bách tiên chúngDuy tổ đặc tônVô đoan nhất ngữẤn phá diện mônHàng long phục tượngĐạo bố càn khôn.
Dịch
:
Khi sanh ứng điềm lànhNhiệm mầu chuyển pháp luânTiên nhân năm trăm vịRiêng tôn một mình TổNói thẳng chẳng mào đầuMột lời là ấn chứngHàng phục rồng cùng voiĐạo lan tràn vũ trụ.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Tu tiên học đạo nhập thâm sơnKhấu thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lânNgũ bách đan khách quy tam bảoLưỡng điều hỏa long thượng cửu thiênChánh pháp nhãn tạng phó tâm ấnKim sắc đầu đà định Vân namTổ tổ tương thừa vô ngôn thuyếtĐăng đăng hỗ ánh cánh quang tiền.
Tuyên
Hóa Thượng nhân tác
Dịch
:
Tu tiên học đạo chốn thâm sơnLạy Tổ A- Nan cầu độ thoátTiên khách năm trăm quay về PhậtCặp rồng bay thẳng tận mây xanhChánh pháp truyền trao qua tâm ấnĐầu đà thân vàng định Vân NamTổ tổ tiếp nối không lời nóiÁnh đuốc giao thoa mãi rạng thêm.Thượng Nhân Tuyên Hóa soạn
Giảng
Thoại
Bài
Truyện.
Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa :
Vị tổ thứ ba, Thương Na Hòa Tu (Chú 1) là dân nước Ma-Đột-La,
dòng Tỳ Xá Đa.
Tại
thai lục niên :
Trường hợp của Tổ và của tôn giả La Hầu La cũng tương tự
nhau khi sanh ra đời, nghĩa là thai nằm trong bụng mẹ suốt sáu năm
; Ứng thụy nhi sinh : Khi sanh ra đời có rất nhiều điềm
lành phát sanh(Chú 2).
Hậu
xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn :
Về sau xuất gia học đạo Lão, tu khổ hạnh trong núi Tuyết. Đạo
tiên còn gọi là đạo Lão.
Nhân
A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa lục chủng
chấn động :
Khi tổ A-Nan sắp vào niết bàn thì sông núi đất đai nổi lên sáu
cách chấn động như đất rung (chấn), nổi tiếng rống (hống),
tiếng đập (kích), các hiện tượng chuyển động (động),
nhẩy lên (dũng), nhô lên (khởi).
Tôn
giả đồng ngũ bách tiên nhân lễ A-Nan túc, nhi quỵ thỉnh viết :
Hồi đó có năm trăm vị tiên theo tôn giả học đạo, cùng đi
đến trước Tổ A-Nan khấu đầu đảnh lễ, quỳ xuống, hai tay
để xuống chân Ngài, rồi bạch rằng :‘Ngã ư trưởng lão,
đương chứng Phật pháp, nguyện thùy độ thóat.’ : ‘Nay trưởng
lão sắp vào niết bàn, chúng con xin theo Ngài để tu học Phật
pháp. Chúng con phải làm đệ tử của Ngài, học Phật pháp nơi
Ngài, vậy xin trưởng lão xót thương mà độ cho chúng con, đặng
chúng con thóat vòng sanh tử.’
A-Nan
tức biến Hằng hà vi kim địa :
Lúc đó tôn giả dùng phép biến sông Hằng thành bình địa,
mặt đất là vàng, nước thì biến mất, không còn nữa. Đây là
phép biến hóa, không phải là sự thực, nên chỉ có tính cách
tạm thời, không phải vĩnh viễn. Lúc sông Hằng biến ra đất vàng
thì từ trên trời mưa xuống, nào hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la,
hoa mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa, bởi mỗi lần có chấn động sáu
cách, các hiện tượng này đều xuất hiện như trên. Bởi lý do
nào tôn giả A-Nan lại hóa phép như vậy ? Điều này chứng tỏ
rằng Phật pháp là không thể nghĩ bàn, trong thế gian này mọi
thứ đều vô thường.
Vị
thuyết đại pháp viết : ‘Tích Như Lai dĩ chánh pháp nhãn
phó Đại Ca-Diếp, chuyển phó ư ngã, ngã kim phó nhữ.’:
Tổ A-Nan nói pháp lớn cho tôn giả Thương Na Hòa Tu nghe như sau :
‘Xưa, đức Như Lai trao đại pháp nhãn cho Ngài Đại Ca-Diếp, tôn
giả Đại Ca-Diếp truyền lại đại pháp nhãn cho ta, nay ta giao
đại pháp nhãn cho ngươi’.
Tôn
giả ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến phạm cung,
chuyển đại pháp luân :
Sau khi được trao đại pháp nhãn, tôn giả Thương Na Hòa Tu đi
du hóa các nơi độ chúng sanh. Hồi đó tại khu rừng Ưu Lưu Trà
thuộc nước Ma Đột La có hai con rồng lửa chiếm cứ, không cho
bất cứ ai đến ở, và nếu có xây dựng chùa miếu thì chùa
miếu cũng bị nạn hỏa tai. Khi qua địa phương này, tôn giả đã
hàng phục được chúng, cho chúng quy y Phật rồi, ở đó tôn
giả dựng lên một ngôi đạo tràng thanh tịnh để hoằng dương
Phật pháp.(Chú 3).
Hậu
phó pháp dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn Kết tân quốc Tượng Bạch
sơn, hiện thập bát biến hỏa quang tam muội, dụng phần ký thân
:
Về sau Tổ Thương Na Hòa Tu truyền lại pháp cho tôn giả Ưu Ba Cúc
Đa và ẩn thân tại núi Bạch Tượng, miền nam nước Kế Tân,
về phía bắc của xứ Ấn độ. Khi viên tịch, Tổ thị hiện mười
tám phép biến trên không trung, hiện ra hỏa quang tam muội và dùng
lửa đó thiêu thân.
Bài
Tán
Ứng thụy nhi sinhChuyển diệu pháp luânNgũ bách tiên chúngDuy tổ đặc tônVô đoan nhất ngữẤn phá diện mônHàng long phục tượngĐạo bố càn khôn.
Ứng
thụy nhi sinh, chuyển diệu pháp luân :
Hồi đó có điềm lành được phát hiện. Điều này ứng vào
sự ra đời của tôn giả Thương Na Hòa Tu, báo trước sự xuất
hiện của bậc thánh nhân, ra đời để chuyển pháp luân mầu
nhiệm.
Ngũ
bách tiên chúng, duy tổ đặc tôn :
Năm trăm vị tiên cùng học pháp với tôn giả và tất cả đều
nguyện xin quy y với Tổ A-Nan, chớ không muốn quy y với ai khác.
Vô
đoan nhất ngữ, ấn phá diện môn :
Không một lời mào đầu, chỉ một câu nói là ấn chứng ngay.
Hàng
long phục tượng, đạo bố càn khôn : Tôn
giả hàng phục rồng lửa, về sau ẩn thân trong núi bạch Tượng.
Đạo pháp
của tôn giả lan truyền khắp càn khôn vũ trụ.
Bài
kệ
Tu tiên học đạo nhập thâm sơnKhấu thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lânNgũ bách đan khách quy tam bảoLưỡng điều hỏa long thượng cửu thiênChánh pháp nhãn tạng phó tâm ấnKim sắc đầu đà định Vân namTổ tổ tương thừa vô ngôn thuyếtĐăng đăng hỗ ánh cánh quang tiền.
Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn
: Tôn giả Thương Na Hòa Tu cầu phép trường sinh nên vào núi tu
học làm đạo sĩ.
Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân :
Về sau, khi Tổ A-Nan sắp vào niết bàn, đất đai nổi lên sáu cách
chấn động, tôn giả biết rằng nơi đó có thánh nhân, bèn đi
đến khấu đầu xin Tổ độ cho, hầu thóat khỏI vòng sinh tử. ‘Khánh
Hỷ’ chính là Tổ A-Nan.
Ngũ
bách đan khách quy tam bảo :
Những người tu đạo tiên có phép luyện đan, nên người ta thường
gọi họ là ‘đan khách’ – khách luyện đan. Tôn giả mang năm
trăm quyến thuộc, nghĩa là năm trăm đồ đệ, cùng một lúc đến
với Tổ A-Nan, quy y Phật, pháp, tăng.
Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên :
Tôn giả hàng phục hai con rồng lửa, cho chúng về cõi trời, không
cho ở lại nhân gian tác quái.
Chánh
pháp nhãn tạng phó tâm ấn :
Tổ truyền lại pháp nhãn cho tôn giả Thương Na Hòa Tu, đó là
pháp nhiệm mầu truyền tâm ấn.
Kim
sắc đầu đà định Vân nam :
‘Kim Sắc Đầu Đà’ tức là
Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa,
tại thai lục niên, ứng thụy nhi sinh. Hậu
xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn. Nhân
A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa
lục chủng chấn động, Tôn giả đồng ngũ bách
tiên nhân lễ A-nan túc, nhi quỵ thỉnh viết:
“Ngã ư trưởng lão, đương chứng Phật pháp,
nguyện thùy độ thoát.” A-Nan tức biến Hằng
hà vi kim địa, vị thuyết đại pháp viết: “Tích
Như Lai dĩ Chánh Pháp Nhãn phó Đại Ca-Diếp,
chuyển phó ư ngã, ngã kim phó nhữ.” Tôn giả
ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến phạm
cung, chuyển đại pháp luân.
Hậu phó pháp
dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn
Kế
Tân quốc, Tượng Bạch sơn, hiện thập bát biến, hỏa quang
tam muội tự phần kỳ
thân.
Dịch:
Tổ
Thứ Ba Thương Na Hòa Tu
(Shanakavasa)
Tôn
giả nguyên là dân nước Ma-Đột-La (Mathura), dòng
Tỳ Xá Đa (Vishodaka), ở trong thai mẹ sáu năm,
ứng vào điềm lành mà sanh ra đời. Về sau, Tôn
giả xuất gia học đạo tiên ở núi Tuyết. Nhân
khi tổ A-Nan nhập diệt, núi sông đất bằng
nổi lên sáu cách chấn động, Tôn giả dẫn năm
trăm tiên nhân đến đảnh lễ dưới chân Tổ,
quỳ xuống thỉnh rằng: “Chúng con phải chứng
pháp Phật tại nơi trưởng lão, nguyện xin trưởng
lão độ thoát cho chúng con.” Tổ A-Nan liền
biến sông Hằng thành bình địa, bằng
vàng, rồi thuyết pháp lớn rằng: “Xưa, đức
Như Lai đem Đại Pháp Nhãn trao cho tổ Đại
Ca-Diếp, rồi Đại Pháp Nhãn lại chuyển đến
ta, nay ta trao cho ngươi.” Chứng được pháp
rồi, Tôn giả hàng phục hai con rồng lửa để
xây đạo tràng và chuyển bánh xe pháp. Về sau Tôn
giả truyền pháp lại cho Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta),
đi tới núi Bạch Tượng nước Kế Tân
(Kashmir),
hiện mười tám kiểu thần biến, rồi nhập vào Hỏa Quang
tam-muội, tự đốt thân.
Tán
Ứng
thụy nhi sinh
Chuyển
diệu pháp luân
Ngũ
bách tiên chúng
Duy
tổ đặc tôn
Vô
đoan nhất ngữ
Ấn
phá diện môn
Hàng
long phục tượng
Đạo
bố càn khôn.[1]
Dịch:
Khi
sanh ứng điềm lành
Nhiệm
mầu chuyển pháp luân
Tiên
nhân năm trăm vị
Riêng
tôn một mình Tổ
Nói
thẳng chẳng mào đầu
Một
lời là ấn chứng
Hàng
phục rồng cùng voi
Đạo
lan tràn vũ trụ.
Hoặc
thuyết kệ viết:
Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn
Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân
Ngũ
bách đan khách quy Tam bảo
Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên
Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn
Kim
sắc đầu đà định Vân Nam
Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết
Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền.[2]
(Tuyên
Hóa Thượng nhân tác)
Dịch:
Tu
tiên học đạo chốn thâm sơn
Lạy
Tổ A- Nan cầu độ thoát
Tiên
khách năm trăm quay về Phật
Cặp
rồng bay thẳng tận mây xanh
Chánh
pháp truyền trao qua tâm ấn
Đầu
đà thân vàng định Vân Nam
Tổ
tổ tiếp nối không lời nói
Ánh
đuốc giao thoa mãi rạng thêm.
(Thượng
Nhân Tuyên Hóa)
Giảng:
Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa: Vị
tổ thứ ba, Thương Na Hòa Tu (Chú 1) là dân nước
Ma-Đột-La, dòng Tỳ Xá Đa.
Tại
thai lục niên: Trường
hợp của Tổ và của Tôn giả La Hầu La cũng tương
tự nhau khi sanh ra đời, nghĩa là thai nằm trong
bụng mẹ suốt sáu năm; Ứng thụy nhi
sinh: Khi sanh ra đời có rất nhiều điềm lành
phát sanh.
(Chú 2)
Hậu
xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn: Về
sau xuất gia học đạo Lão, tu khổ hạnh trong núi
Tuyết. Đạo tiên còn gọi là đạo Lão.
Nhân
A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa
lục chủng chấn động: Khi
tổ A-Nan sắp vào Niết-bàn thì sông núi đất
đai nổi lên sáu cách chấn động như đất rung
(chấn), nổi tiếng rống (hống), tiếng đập (kích),
các hiện tượng chuyển động (động), vụt
lên (dũng), nhô lên (khởi).
Tôn
giả đồng ngũ bách tiên nhân lễ A-Nan túc, nhi
quỵ thỉnh viết: Hồi
đó có năm trăm vị tiên theo Tôn giả học đạo,
cùng đi đến trước Tổ A-Nan khấu đầu đảnh
lễ, quỳ xuống, hai tay để xuống chân Ngài,
rồi bạch rằng:”Ngã ư trưởng lão, đương
chứng Phật pháp, nguyện thùy độ thoát.”: “Nay
trưởng lão sắp vào Niết-bàn, chúng con xin theo
Ngài để tu học Phật pháp. Chúng con phải làm
đệ tử của Ngài, học Phật pháp nơi Ngài,
vậy xin trưởng lão xót thương mà độ cho chúng
con, đặng chúng con thoát vòng sanh tử.”
A-Nan
tức biến Hằng hà vi kim địa: Lúc
đó Tôn giả dùng phép biến sông Hằng thành bình
địa, mặt đất là vàng, nước thì biến mất,
không còn nữa. Đây là phép biến hóa, không
phải là sự thực, nên chỉ có tính cách tạm
thời, không phải vĩnh viễn. Lúc sông Hằng
biến ra đất vàng thì từ trên trời mưa
xuống, nào hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la, hoa
mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa, bởi mỗi lần có
chấn động sáu cách, các hiện tượng này đều
xuất hiện như trên. Bởi lý do nào Tôn giả
A-Nan lại hóa phép như vậy? Điều này chứng
tỏ rằng Phật pháp là không thể nghĩ bàn,
trong thế gian này mọi thứ đều vô thường.
Vị
thuyết đại pháp viết: “Tích Như Lai dĩ Chánh
Pháp Nhãn phó Đại Ca-Diếp, chuyển phó ư ngã,
ngã kim phó nhữ.”: Tổ
A-Nan nói pháp lớn cho Tôn giả Thương Na Hòa Tu
nghe như sau: “Xưa, đức Như Lai trao Đại Pháp
Nhãn cho Ngài Đại Ca-Diếp, Tôn giả Đại
Ca-Diếp truyền lại Đại Pháp Nhãn cho ta, nay ta
giao Đại Pháp Nhãn cho ngươi”.
Tôn
giả ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến
phạm cung, chuyển đại pháp luân: Sau
khi được trao Đại Pháp Nhãn, Tôn giả Thương
Na Hòa Tu đi du hóa các nơi độ chúng sanh. Hồi
đó tại khu rừng Ưu Lưu Trà thuộc nước Ma Đột
La có hai con rồng lửa chiếm cứ, không cho bất
cứ ai đến ở, và nếu có xây dựng chùa miếu
thì chùa miếu cũng bị nạn hỏa tai. Khi qua địa
phương này, Tôn giả đã hàng phục được chúng,
cho chúng quy y Phật rồi, ở đó Tôn giả dựng
lên một ngôi đạo tràng thanh tịnh để hoằng
dương Phật pháp.
(Chú
3)
Hậu
phó pháp dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn Kết tân
quốc Tượng Bạch sơn, hiện thập bát biến
hỏa quang tam muội, dụng phần ký thân: Về
sau Tổ Thương Na Hòa Tu truyền lại pháp cho Tôn
giả Ưu Ba Cúc Đa và ẩn thân tại núi Bạch Tượng,
miền nam nước Kế Tân (Kashmir), về phía bắc
của xứ Ấn độ. Khi viên tịch, Tổ thị hiện
mười tám phép biến
(4)
trên không trung, hiện ra
Hỏa Quang tam muội
(5)
và dùng lửa đó thiêu thân.
Bài
Tán
Ứng
thụy nhi sinh
Chuyển
diệu pháp luân
Ngũ
bách tiên chúng
Duy
tổ đặc tôn
Vô
đoan nhất ngữ
Ấn
phá diện môn
Hàng
long phục tượng
Đạo
bố càn khôn.
Ứng
thụy nhi sinh, chuyển diệu pháp luân: Hồi
đó có điềm lành được phát hiện. Điều này
ứng vào sự ra đời của Tôn giả Thương Na Hòa
Tu, báo trước sự xuất hiện của bậc thánh nhân,
ra đời để chuyển pháp luân mầu nhiệm.
Ngũ
bách tiên chúng, duy tổ đặc tôn:
Năm
trăm vị tiên cùng học pháp với Tôn giả và
tất cả đều nguyện xin quy y với Tổ A-Nan,
chớ không muốn quy y với ai khác.
Vô
đoan nhất ngữ, ấn phá diện môn:
Không
một lời mào đầu, chỉ một câu nói là ấn
chứng ngay.
Hàng
long phục tượng, đạo bố càn khôn: Tôn
giả hàng phục rồng lửa, về sau ẩn thân trong
núi bạch Tượng. Đạo pháp của Tôn giả
lan truyền khắp càn khôn vũ trụ.
Bài
kệ
Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn
Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân
Ngũ
bách đan khách quy Tam Bảo
Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên
Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn
Kim
sắc đầu đà định Vân Nam
Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết
Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền.
Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn: Tôn
giả Thương Na Hòa Tu cầu phép trường sinh nên
vào núi tu học làm đạo sĩ.
Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân: Về
sau, khi Tổ A-Nan sắp vào Niết-bàn, đất đai
nổi lên sáu cách chấn động, Tôn giả biết
rằng nơi đó có thánh nhân, bèn đi đến khấu
đầu xin Tổ độ cho, hầu thoát khỏi vòng sinh
tử. ”Khánh Hỷ” chính là Tổ A-Nan.
Ngũ
bách đan khách quy Tam Bảo: Những
người tu đạo tiên có phép luyện đan, nên người
ta thường gọi họ là “đan khách” – khách
luyện đan. Tôn giả mang năm trăm quyến thuộc,
nghĩa là năm trăm đồ đệ, cùng một lúc đến
với Tổ A-Nan, quy y Phật, Pháp, Tăng.
Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên: Tôn
giả hàng phục hai con rồng lửa, cho chúng về cõi
trời, không cho ở lại nhân gian tác quái.
Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn: Tổ
truyền lại Pháp Nhãn cho Tôn giả Thương Na Hòa
Tu, đó là pháp nhiệm mầu truyền tâm ấn.
Kim
sắc đầu đà định Vân nam: “Kim
Sắc Đầu Đà”
tức là Tổ Ca-Diếp; Ngài hiện nay tại Vân Nam
và vẫn còn ở trong định.
Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết: Đây
là pháp môn truyền thừa giữa các Tổ; tuy gọi
là pháp nhưng thực ra pháp đó ra sao, niệm theo
cách thức nào, tụng chú gì, tóm lại chẳng có
gì hết ! Chỉ là lấy tâm ấn tâm, nên gọi là
pháp môn truyền tâm ấn, ngoài ra chẳng có lý
thuyết gì khác.
Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền: Ánh
sáng các ngọn đuốc qua lại với nhau thì sức
sáng càng gia tăng; “cánh quang tiền” là ý
muốn nói rằng phía trước cái sáng còn có cái
sáng hơn.
Thượng
Nhân Tuyên Hóa giảng ngày mồng 2 tháng 11 năm
1983
Ghi
Chú:
(1)
Về nguyên ủy danh xưng Thương Na Hòa Tu, xin
xem Phật Tổ
Thống Ký
Tổ
thứ ba, Tôn giả Thương Na Hòa Tu là trưởng
giả thành Vương Xá. Trong một kiếp quá khứ, Tôn
giả là một thương gia có lần gặp trên đường
một vị Bích-chi Phật bị bịnh nặng. Tôn giả
kiếm thuốc thang để chữa trị, thấy áo của
vị này rách nát, nên kiếm áo dạ cúng dàng. Bích-chi
Phật nói rằng: “Đó là áo Thương Na,
mặc áo đó thành đạo, nên nay lại mang áo đó
để vào Niết-bàn”. Nói xong Bích-chi Phật bay
thân lên không trung, hiện mười tám phép biến
rồi nhập Niết-bàn. Vị thương gia rất đỗi
bi ai, chất củi thơm lên hỏa táng xá
lợi rồi dựng tháp để cúng dàng, đồng thời
phát lời nguyện đến đời sau sẽ có công đức,
oai nghi và y phục giống hệt như vậy. Do
nguyện lực này mà trong năm trăm kiếp thân
trung ấm, áo Thương Na vẫn thường mang trên mình,
và đến kiếp sau cùng thì tấm áo nói trên cũng
từ trong thai mẹ ra đời, lớn lên thì áo theo
với thân thể mà tăng trưởng, khi xuất gia thành
áo của người tu, khị thọ đại giới thì
biến thành áo “chín mảnh” (cửu điều y). Đó
là nguyên ủy của danh xưng Thương Na Hòa Tu.
Tập Tây
Vực Ký có ghi rằng: “Từ nước
Phạm Diễn Na (Bamiyan, nay thuộc A Phú Hãn) đi
về phía đông của núi Tuyết, có một già-lam
(tu viện) tàng trữ áo Thương Na chín mảnh, may
bằng chỉ đỏ. Tôn giả Thương Na Hòa Tu để
lại chiếc áo cà sa này khi nhập diệt, dặn đệ
tử rằng khi nào pháp tận thì áo đó mới
biến hoại. Nay áo không còn nữa.”
(2) Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi như
sau:
Tổ
thứ ba, Tôn giả Thương Na Hòa Tu. . . cha Tôn
giả là Lâm Thắng, mẹ là Kiều Xa Da, ở trong
bụng mẹ 6 năm mới sanh ra. Tiếng Phạn “thương
nặc ca” có nghĩa là “áo tự nhiên”, là tên
của một lọai cây quý, sáu nhánh, thuộc vùng Tây
Vực, hễ khi nào có La Hán, hay thánh nhân giáng
trần thì mọc lên ở một nơi tinh khiết. Tôn
giả Hòa Tu sanh ra chính là ứng vào điềm lành
này.
(3) Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi như
sau:
Lúc
xưa, khi đức Như Lai du hóa tại nước Ma Đột
La, qua một khu rừng xanh, thấy cây cối tươi
tốt, bèn nói với Tôn giả A-Nan: “Tại khu
rừng Ưu Lưu Trà này, một trăm năm sau khi ta vào
Niết-bàn, sẽ có Tỳ kheo Thương Na Hòa Tu,
chuyển pháp luân nhiệm mầu ở đây.” Quả nhiên
một trăm năm sau, Tôn giả Hòa Tu ra đời, xuất
gia chứng đạo, thọ Pháp Nhãn của Tổ Khánh
Hỷ và hóa độ chúng sanh. Khi tới khu rừng này,
Tôn giả hàng phục hai con rồng lửa, cho chúng
quy y Phật giáo, do đó chúng nhường lại chỗ này
để Tôn giả lập nên một đạo tràng.
(4)
Mười
tám kiểu thần biến: thân trên ra nước thân dưới ra lửa …
(5)
Hỏa Quang tam-muội
(định Hỏa Quang): loại thiền định phát ra lửa, thường
gọi là lửa tam-muội
No comments:
Post a Comment