Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ mười: HIẾP
TÔN GIẢ
Tôn
giả, trung Ấn
Độ nhân.
Nhân tùy
phụ yết Cửu Tổ, phụ viết: “Thử tử xử thai lục thập
tuế, nhân danh Nan Sanh. Thường hữu tiên vị, thử nhi phi phàm,
đương vi
pháp khí. Kim ngộ
Tôn
giả, khả linh
xuất
gia.” Tổ
tức
vị lạc phát thọ
cụ. Yết-ma
chi tế, tường quang chúc
tọa, nhưng cảm xá-lợi
tam thất lạp
hiện
tiền. Tự thử tinh tiến vong
bì, hiếp bất chí tịch, nhân toại hiệu
vi Hiếp
tôn
giả. Hậu Tổ
phó dĩ Đại
Pháp, tôn giả đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí Hoa
Thị quốc,
chuyển phó pháp ư Phú-na-dạ-xa. Tức hiện thần biến, nhi nhập
Niết-bàn, hóa hỏa tự
phần. Tứ chúng
các dĩ y kích thịnh xá-lợi,
tùy xứ kiến
tháp.
Dịch
:
Tôn
giả người Trung Ấn, nhân lúc theo cha đến yết kiến Tổ thứ
chín (Phục-đà-mật-đa), cha tôn giả thưa:
-
Thưa Ngài! Đứa trẻ này ở trong thai sáu mươi năm, do đó con đặt
tên là Nan Sanh và từng có vị tiên bảo: ‘Đứa trẻ này khác
thường, sẽ là bậc pháp khí, nay được gặp Tổ, xin Ngài cho nó
xuất gia’.
Tổ
liền cho tôn giả xuống tóc xuất gia. Trong lúc yết-ma thọ
giới Cụ túc, có ánh sáng lạ chiếu khắp tòa và cảm ứng
hiện ra hai mươi mốt viên xá-lợi. Từ đó, tôn giả tinh tấn
tu hành không biết mệt mỏi, hông chẳng hề dính chiếu nên người
đời gọi tôn giả là Hiếp tôn giả. Sau đó, tôn giả được
Tổ truyền trao Đại Pháp. Đắc pháp rồi, tôn giả du hóa đến
nước Hoa Thị và truyền pháp cho Phú-na-dạ-xa. Truyền pháp xong,
tôn giả liền hiện thần biến, hóa lửa tự thiêu rồi nhập
Niết-bàn. Bốn chúng dùng y bọc xá-lợi và khắp nơi đều xây
tháp cúng dường.
Tán
viết :
Hiếp
bất chí tịch
Ư
đạo hà thiết
Mãn
tọa tường
quang
Xung
phá thiết
bích
Địa
diêu lục chấn
My
hoành tỵ trực
Thiên
cổ vạn cổ
Dịch
:
Hông
không dính chiếu
Hành
đạo tiến tu
Khắp
tòa điềm sáng
Vách
sắt phá tung
Sáu
cách đất rung
Mày
ngang mũi thẳng
Làm
gương trời người
Mãi
từ nghìn xưa.
Hoặc
thuyết kệ viết :
Hiếp
bất trước tịch hành lực kiên
Dĩ
thân tác tắc thị
thùy tiên
Tùng
bách nại hàn nhân ngưỡng
mộ
Nhật
nguyệt phổ
chiếu các khai
nhan
Cao
phong lượng tiết vô luân
tỷ
Đại
chí vĩ
nguyện hữu thùy toàn
Cổ
kim trung ngoại giai
mông nhuận
Tường
quang thụy
ải chúng sở chiêm[2]
(Tuyên
Công Thượng Nhân tác)
Dịch
:
Lưng
không dính chiếu nhẫn khó hành
Mẫu
mực làm nền dạy hậu sanh
Tùng
bách chịu rét người ngưỡng
mộ
Nhật
nguyệt tỏa sáng dáng thêm xinh
Khí
tiết thanh nhã không người sánh
Chí
cao nguyện lớn hiếm kẻ bằng
Xưa
nay khắp chốn đều nương đức
Tướng
tốt mây lành chúng kính tin
(Tuyên Công Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn
giả, trung Ấn Độ nhân:
Tổ thứ mười, Hiếp tôn giả là người miền Trung Ấn Độ.
Tại sao gọi Ngài là Hiếp tôn giả? Vì tôn giả tọa thiền là
không nằm xuống chiếu. Ngài không giống như ai, ngồi đó rồi
lại nằm dài xuống. Chỗ nào Ngài ngồi thì lưng không hề dính
chiếu chỗ đó, nên người ta thường gọi Ngài là “Hiếp Tôn
giả” (hiếp nghĩa là sườn lưng).
Nhân tùy
phụ yết Cửu Tổ, phụ viết:
Tôn giả theo cha mình đến yết kiến Tổ thứ chín, cha Tôn giả
thưa: “Thưa
Ngài! Thử
tử xử thai lục thập tuế, nhân danh Nan Sanh:
Tôn giả ở trong thai sáu mươi năm. Quý vị nghĩ coi! Ngài sanh ra
không dễ dàng. Sáu mươi năm mới ra khỏi thai! Vậy chẳng phải
là khó sanh (nan sanh) hay sao? Giống như Lão tử người Trung Hoa,
ở trong thai mẹ đến tám mươi năm, vì vậy gọi là Lão tử.
Vị này còn ở lâu hơn tới hai mươi năm. Thường
hữu tiên vị, thử nhi phi phàm, đương vi
pháp khí. Kim ngộ
Tôn
giả, khả linh
xuất
gia.”:
Từng có vị tiên nói: “Đây không phải là một đứa bé bình
thường, loại trẻ nít hay đái dầm, mà
ngược lại sau này sẽ là bậc pháp khí trong Phật giáo. Nay
gặp được Ngài-Tổ thứ chín, con xin Ngài cho nó được xuất
gia”.
Tổ tức
vị lạc phát thọ
cụ: Tổ thứ chín liền
cho tôn giả xuống tóc và thụ giới cụ túc. Yết-ma
chi tế, tường quang chúc
tọa, nhưng cảm xá-lợi
tam thất lạp
hiện
tiền:
Trong lúc đang nói ba lần yết-ma truyền giới cụ túc cho Tôn
giả thì có ánh sáng lành chiếu rực trên tòa và cảm ứng
hiện ra hai mươi mốt viên xá-lợi.
Tự
thử tinh tiến vong bì,
hiếp bất chí tịch, nhân toại hiệu
vi Hiếp
tôn
giả:
Vì thế, sau khi thọ giới, Tôn giả tinh tấn không hề mệt
mỏi. Chúng ta tu hành thì cảm thấy mệt mỏi còn Ngài không hề
biết mệt mỏi là gì, lưng Ngài không hề chạm đến giường. Vì
vậy, mọi người gọi Ngài là “Hiếp tôn giả”.
Hậu Tổ phó
dĩ Đại
Pháp:
Sau đó, Tổ thứ chín truyền pháp môn tâm ấn cho Ngài (chú 1). Tôn
giả đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí
Hoa
Thị quốc,
chuyển phó pháp ư Phú-na-dạ-xa:
Tổ thứ mười được thọ ấn chứng. Sau khi được truyền pháp,
Ngài đến nước Hoa Thị. Nước Hoa Thị (Palatiputra) là tên một
nước của Ấn Độ. Tổ thứ mười truyền pháp cho tôn giả Phú-na-dạ-xa
(Punyayashas).
Tức
hiện thần biến, nhi nhập niết-bàn, hóa hỏa tự
phần:
Tôn giả liền hiện mười tám thứ thần biến mà nhập Niết-bàn;
lại hóa ra lửa tam-muội, tự thiêu thân mình. Tứ
chúng
các dĩ y kích (裓)
thịnh xá-lợi,
tùy xứ kiến
tháp:
Bốn chúng ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni dùng vạt áo
đựng xá-lợi của tôn giả và xây tháp cúng dường khắp nơi.
Bài
tán:
Hiếp
bất chí tịch, Ư đạo hà thiết:
Hông Ngài không dính chiếu, đó là sự tu hành rất khẩn thiết,
không còn gì khẩn thiết hơn thế!
Mãn
tọa tường
quang, Xung phá thiết
bích:
Ánh sáng lành xuất hiện khắp tòa, như phá tung các tường
sắt.
Địa
diêu lục chấn, My hoành tỵ trực:
Đất ở đây đều chấn động. Có tất cả sáu cách chấn động.
Lông mày của Ngài thì nằm ngang, mũi thì thẳng. Quý vị xem! Ngài
thì như vậy đó! Mày ngang, mũi dọc, còn quý vị thì lông mày
ngang hay dọc? Mũi thì ngang hay dọc?[3]
Về vụ này tôi xin để quý vị tự xét lấy mình!
Thiên
cổ vạn cổ, Vi nhân thiên
tắc:
Nghìn xưa đến nay, Ngài đều làm mẫu mực cho người và trời.
Bài
kệ:
Hiếp
bất trước tịch hành lực kiên:
Tại sao lưng Ngài không dính chiếu? Vì sức tinh tấn tu hành
của Ngài rất kiên cố.
Dĩ
thân tác tắc thị
thùy tiên:
Ngài dùng thân mình làm phép tắc, là một tấm gương sáng cho
mọi người.
Tùng
bách nại hàn nhân ngưỡng
mộ:
Bất luận lạnh như thế nào thì cây tùng và cây bách đều không
ngại, nên con người rất ngưỡng mộ sự cứng rắn của chúng,
và cảm thấy tùng bách, rất cao thượng.
Nhật
nguyệt phổ
chiếu các khai
nhan:
Ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu khắp nơi, mọi người
thấy đều ưa thích.
Cao
phong lượng tiết vô luân
tỷ:
Ngài tu hành như vậy, đạo phong thanh cao, tiết tháo hoàn mỹ như
vậy thì không có người nào sánh kịp.
Đại
chí vĩ
nguyện hữu thùy toàn:
Chí khí cao, nguyện lực lớn như vậy, cái nào cũng trọn vẹn,
cái nào cũng không thiếu sót.
Cổ
kim trung ngoại giai mông
nhuận:
Xưa nay, người trong nước và ngoài nước đều thấm nhuần sự
giáo hóa và ân đức của Ngài.
Tường
quang thụy
ải chúng sở chiêm:
Đạo phong của Ngài giống như ánh sáng và khí mây tốt lành,
khiến mọi người đều chiêm ngưỡng.
(Tuyên
Công Thượng Nhân giảng ngày 10, tháng 3, năm 1978).
-------------------------------------
Chú
1:
Bài
kệ truyền pháp của Tổ thứ chín phó chúc cho Tổ thứ mười,
thấy trong “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục” và “Chỉ Nguyệt
Lục” ghi:
Chân
Lý bổn vô danh
Nhân
danh hiển chân lý
Thọ
đắc chân thật pháp
Phi
chân diệc phi ngụy[4]
Dịch:
Chân lý vốn không tên
Nhờ tên rõ chân lý
Hiểu được pháp chân thật
Không ngụy cũng không chân.
[3]
Hám Sơn Đại sư nói: khai ngộ rồi thì sẽ biết lỗ mũi
(nostril) của mình trỏ lên hay trỏ xuống.
No comments:
Post a Comment