Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
THẬP
CỬU TỔ CƯU-MA-LA-ĐA TÔN
GIẢ
Tôn
giả Đại Nhục Chi quốc nhân. Nhân thập bát Tổ chí, tôn giả vấn viết:
“Thị hà đồ chúng?” Tổ viết: “Thị Phật đệ tử.” Bỉ văn Phật hiệu, tâm thần
tủng nhiên, tức thời bế hộ. Tổ lương cửu khấu kỳ môn, tôn giả viết:
“Thử xá vô nhân.” Tổ viết: “Đáp vô giả thùy?” Tôn giả văn ngữ, tri kỳ dị
nhân, toại khai quan diên tiếp. Tổ viết: “Tích Thế Tôn ký viết: ‘Diệt
hậu nhất thiên niên, hữu Đại sĩ xuất hiện ư Nhục Chi quốc, thiệu long
huyền hóa.’ Kim nhữ trị ngã, ưng tư gia vận.” Ư thị xuất gia thọ cụ, phó
dĩ đại pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ, hậu đắc Xà-dạ-đa, tức ư tọa thượng,
dĩ chỉ trảo ly diện, như hồng liên khai, phóng đại quang minh, chiếu
diệu tứ chúng, nhi nhập tịch diệt.
Tôn
giả người nước Đại
Nhục Chi, khi Tổ thứ mười tám đến, Tôn
giả hỏi:
-
Thưa Ngài! Ngài là đệ tử của ai?
Tổ
đáp:
-
Là đệ tử của Đức Phật.
Nghe
danh hiệu Đức Phật, Tôn giả sợ hãi lập tức đóng
cửa lại. Tổ gõ cửa hồi lâu, Tôn giả bảo:
-
Trong nhà không có người !
Tổ
hỏi:
-
Vậy người trả lời “không” trong nhà là ai?.
Nghe
nói, Tôn giả biết đây là bậc xuất phàm liền
mở cửa đón tiếp. Tổ bảo:
-
Xưa, Đức Thế Tôn thụ ký: “Một nghìn năm sau
khi ta diệt độ, có bậc đại sĩ sẽ xuất hiện
ở nước Nhục
Chi nối truyền chính pháp”. Nay ông gặp ta
thật ứng nghiệm với vận tốt này.
Thế
là Tôn giả xuất gia, được Tổ truyền giới cụ
túc và đại pháp. Sau khi đắc pháp và độ Xà-dạ-đa,
Tôn giả ngồi trên toà dùng móng tay rạch
mặt thành hình hoa sen nở, phóng ánh sáng
chiếu khắp bốn chúng rồi nhập diệt.
Tán
:
Văn
Phật bế môn
Thả
tín nhất bán
Thử
xá vô nhân
Bão
tàng tặc hán
Thuyết
pháp Phạm thiên
Môi
lý tẩy thán
Ký
biệt tương lai
Dịch
:
Nghe
Phật đóng cửa
Chỉ
tin một nửa
Nhà
này không người
Tên
trộm lẫn trốn
Thuyết
pháp Phạm thiên
Than
đá sạch đen
Thụ
ký tương lai
Huệ
mạng sợi tơ
Kệ :
Thử
xá vô nhân hữu tặc hán
Tâm
hành xứ diệt ngôn ngữ đoạn
Đáp
giả thị thùy ngô nan giải
Ứng
chi phi ngã nhữ nghi tri
Thiên
niên Đại sĩ xuất Nhục Chi
Vạn
kiếp Pháp Vương ký nhật tiên
Hồng
liên khai phóng chiếu tứ chúng
Thập
cửu đại Tổ hóa nữ nam[2]
Dịch:
Trong
nhà có chủ lại bảo không
Ngôn
ngữ tâm hành bặt dứt đồng
Kẻ
đáp là ai ta chẳng rõ
Đáp
đó
chẳng tôi, ông phải hiểu
Nghìn
năm đại sĩ Nhục
Chi hiện
Vạn
kiếp Như Lai thụ ký ông
Nở
đoá sen hồng soi bốn chúng
Tổ
đời mười chín độ rất đông.
Tuyên
Công Thượng Nhân
Giảng:
Tôn
giả, Đại Nhục Chi quốc nhân:
Tổ thứ mười chín là tôn giả Cưu-ma-la-đa. Vị Tôn
giả này vừa nghe đến một tiếng “Phật” thì vô
cùng sợ hãi. Ngài
thuộc dòng bà-la-môn ở nước Đại Nhục Chi,
thuộc Ấn Độ.
Nhân
thập bát Tổ chí:
Đúng lúc Tổ thứ mười tám đến nước Đại
Nhục Chi, thấy trong nhà bà-la-môn có thần khí
khác thường, nên nhắm nhà tìm đến.
Tôn
giả vấn viết: “Thị hà đồ chúng?” Tôn
giả Cưu-ma-la hỏi Tổ thứ mười tám: “Ông
thuộc tôn giáo nào? Từ đâu đến đây?”
Tổ
viết: “Thị Phật đệ tử.”:
Tổ thứ mười tám trả lời:
“Ta là đệ tử của Đức Phật!”.
Bỉ
văn Phật hiệu, tâm thần tủng nhiên, tức thời
bế hộ:
Vừa nghe đến danh từ Phật, Tôn giả Cưu-ma-la
trong lòng sợ hãi vội đóng cửa lại.
Tổ
lương cửu khấu kỳ môn:
Tổ thứ mười tám đợi ngoài cửa rất lâu mới gõ
cửa nhà Tôn giả.
Tôn
giả viết: “Thử xá vô nhân.”:
Tôn giả ở trong nhà nói:
“Trong nhà này không có người!”
Tổ viết: “Đáp vô giả thùy?” :Tổ
mới hỏi kẻ nào vừa trả lời câu “không có người”?
Kẻ đó là ai? Kẻ đó là cái gì, là quỷ, là yêu
quái chăng? Tôn giả không biết phúc đáp ra sao câu
hỏi của Tổ.
Đã nói là không có ai cả mà sao lại có kẻ
trả lời câu “không có người?” Vậy là nghĩa lý
gì đây !
Tôn
giả văn ngữ, tri kỳ dị nhân, toại khai quan diên
tiếp:
Nghe
xong câu hỏi của người đứng bên ngoài cửa, tôn
giả biết rằng người đó chẳng phải là kẻ
tầm thường, nên mở cửa ra và lúc đó mời Tổ
thứ mười tám vào nhà.
Tổ
viết: “Tích Thế Tôn ký viết: ‘Diệt hậu nhất
thiên niên, hữu Đại sĩ xuất hiện ư Nhục Chi
quốc, thiệu long huyền hóa :
Tổ
thứ mười tám nói: “ Năm
xưa, khi còn tại thế, Đức
Thế Tôn đã từng thọ ký rằng một nghìn năm sau
khi Phật diệt độ, sẽ có một vị đại bồ-tát
xuất hiện ở nước Nhục Chi, tiếp tục làm hưng
thịnh giáo pháp huyền diệu này”. “Kim
nhữ trị ngã, ưng tư gia vận.”:
Nay ông gặp ta đây, nên hiểu là đúng với lời
thụ kí đó.” Chữ “ưng” là nên, nên như vậy.
“Gia vận” nghĩa là vận lành, ngụ ý nói lời
thụ ký trên là một vận hội tốt lành.
Ư thị xuất gia thọ cụ, phó dĩ đại pháp:
Thế là tôn giả Cưu-ma-la-đa xuất gia, được Tổ
cho thụ giới cụ túc và truyền diệu pháp tâm ấn
này.(chú1)
Tôn
giả đắc pháp dĩ, hậu đắc Xà-dạ-đa:
Về
sau, khi đã đắc pháp, Tổ gặp và độ tôn giả Xà-dạ-đa
trở thành Tổ thứ hai mươi. Tức ư tọa thượng, dĩ chỉ trảo ly diện, như hồng liên
khai, phóng đại quang minh, chiếu diệu tứ chúng,
nhi nhập tịch diệt: Sau khi truyền pháp, Tôn
giả ngồi trên tòa dùng móng tay vẽ lên mặt mình
thành hình hoa sen nở, lại phóng ánh sáng rực rỡ
chiếu khắp bốn chúng đệ tử, tức là các tì-kheo,
tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, sau đó nhập
diệt.
Bài
tán:
Văn
Phật bế môn, thả
tín nhất bán:
Vừa nghe một tiếng Phật, Tôn giả sợ hãi vội đóng
cửa lại. Nói không tin cũng không đúng mà chỉ tin
một nữa.
Thử
xá vô nhân, bão tàng tặc hán:
Trong nhà này không có người, nhưng có một tên
trộm lẫn trốn.
Thuyết
pháp Phạm thiên, môi lý tẩy thán:
Trong
một kiếp xưa Tổ thứ mười chín đã từng
thuyết pháp trên trời Phạm thiên (chú 2).
Gọi
là pháp nhưng kỳ thực không có pháp nào có thể nói
ra được, nói đi nói lại, nói mà chưa nói, ví như
“môi
lý tẩy thán
”, nghĩa là rửa sạch than củi trên lớp than đá.
Quý vị thấy mầu than mỏ là mầu đen, than củi cũng
màu đen, tẩy đi tẩy lại cuối cùng vẫn là màu
đen mà thôi.
Ký
biệt tương lai, tuệ mạng nhất tuyến:
Xưa
Đức Phật thụ kí rằng một nghìn năm sau, Tôn
giả sẽ là người tiếp nối huệ mạng Phật pháp.
“Tuệ mạng nhất tuyến”
là ý nói pháp
môn truyền tâm ấn có thể ví như sợi chỉ treo, nó
rất là vi tế.
Kệ rằng
Thử
xá vô nhân hữu tặc hán: Nói
trong nhà này không có người, vì không có người
nên kẻ trộm đến, vậy đúng là có một tên
trộm. Ông không phải kẻ trộm thì là gì chứ? Rõ
ràng Ngài ở trong nhà mà nói dối là không có người,
như thế đó thì không phải muốn làm kẻ trộm
thì làm cái gì?
Tâm hành
xứ diệt ngôn ngữ đoạn:
Nhưng lúc này, Ngài muốn trốn cũng không có chỗ
để trốn, muốn lánh cũng không có chỗ để lánh;
tâm không chỗ đi, tâm bị tắt lối, còn nói năng
(ngôn ngữ) cũng không biết nói như thế nào là
phải! Chỉ vì lý do tôn
giả không biết trả lời ra sao câu hỏi của Tổ,
tức là câu “người
đáp là ai”.
Đáp
giả thị thùy ngô nan giải: Câu
kệ này nói thay cho Tổ. Tổ thứ mười tám hỏi tôn
giả: “ Kẻ trả lời “không” đó là ai vậy? Điều
này ta không hiểu.”
Ứng
chi phi ngã nhữ nghi tri:
Ông
ở đâu mà nói “đó không phải là lời nói của
tôi”, ở trong phòng lại nói “ở đây không có
ai”, vậy đó không phải là tôi sao? ‘Nhữ
nghi tri’, tự ông phải biết ông là ai chứ? Câu
hỏi này lại tiến thêm một bước nữa, giúp cho tôn
giả thức tỉnh đó! Cho nên câu sau đây có nói ---
Thiên
niên Đại sĩ xuất Nhục Chi:
Xưa
kia Đức Phật đã nói
trước về vụ này. Theo lời thụ kí thì sau khi Đức
Phật diệt độ một nghìn năm, có vị đại bồ-tát
xuất hiện ở nước Nhục Chi, hẳn là ứng vào ông
đó!
Vạn kiếp Pháp
Vương ký nhật tiên: Vạn kiếp về sau, ông sẽ
là người nối pháp, làm Pháp Vương, một vị chúa
thuyết pháp, và truyền pháp tâm ấn. Lời thụ kí
này do Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sớm đã nói một
nghìn năm trước, nên mới nói là “ký nhật tiên”.
Nở
đoá sen hồng soi bốn chúng: Hoa sen hồng nở
trên mặt của Ngài, soi sáng bốn chúng đệ tử tì-kheo,
tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
Hồng
liên khai phóng chiếu tứ chúng: Tổ thứ mưới
chín giáo hóa chúng đông vô số.
(Tuyên
công thượng nhân giảng ngày 22, tháng 8, năm
1981)
Chú
1:
Kệ truyền pháp
của Tổ thứ mười tám phó chúc cho Tổ thứ mười
chín, trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ
Nguyệt Lục ghi:
Hữu
chủng hữu tâm địa
Nhân
duyên năng phát manh
Ư
duyên bất tương ngại
Đương
sinh sinh bất sinh[3]
Dịch
:
Có
giống và đất tâm
Đủ
duyên sẽ nãy mầm
Duyên
không ngăn ngại nhau
Nên
có sinh không sinh
Chú
2: Quyển hai
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi: Tổ thứ mười chín
Cưu-ma-la-đa là con của một bà-la-môn ở nước Đại
Nhục Chi. Kiếp
xưa ở trên tầng trời Tự Tại (tầng trời thứ sáu
của Dục giới),nhưng vì đã khởi tâm ái khi nhác
thấy chuỗi anh lạc của bồ-tát, nên đọa
xuống trời Đao-lợi (tầng trời thứ hai của Dục
giới). Nghe Kiều- thi-ca[4]
nói kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhờ
pháp thù thắng, Ngài được sinh lên Phạm thiên
(Sắc giới). Nhờ căn tính linh lợi và giỏi
thuyết pháp nên, chư thiên tôn Ngài làm thầy. Đến
thời
kế thừa chư Tổ, Ngài giáng sinh vào nước Nhục
Chi.
No comments:
Post a Comment