Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ 16: TÔN GIẢ
LA-HẦU-ĐA-LA (RAHULATA)
Tôn
giả, Ca-tỳ-la quốc
nhân, phụ danh
Phạm Ma Tịnh Đức. Gia hữu viên thụ, sanh nhĩ như khuẩn,
vị thậm mỹ. Duy Tịnh Đức dữ thứ
tử La-hầu-la-đa
đắc thủ nhi thực, tùy thủ tùy trưởng. Nhân Thập
ngũ Tổ chí kỳ
gia, viết: “Nhữ niên bát
thập nhất, thử thụ
bất sanh nhĩ.” Tịnh Đức văn, di gia thán
phục. Thả viết:
“Đệ tử suy
lão, bất năng sự Sư,
nguyện xả thứ
tử, tùy Sư xuất
gia.” Tổ
viết: “Tích Như
Lai ký thử tử,
đương đệ
nhị ngũ bách niên, vi đại giáo chủ. Kim chi
tương ngộ, cái
phù túc
nhân.” Tức
dữ thế độ,
chấp thị, hậu
phó dĩ đại
pháp. Đắc pháp dĩ,
hành hóa chí
Thất-la-phiệt thành (Sravasti),
chuyển phó
dữ Tăng-ca-nan-đề
(Sanghanandi), tức an tọa quy tịch.
Dịch:
Tôn
giả người nước Ca-tỳ-la (Kapila), cha tên Phạm Ma Tịnh Đức.
Cây trong vườn nhà Ngài sinh nhiều nấm có hương vị rất
ngon, nhưng nấm này chỉ có Tịnh Đức và người con thứ
La-hầu-la-đa mới hái được để ăn và cứ hái xong thì
nấm lại mọc lên. Một hôm, nhân Tổ thứ mười lăm (Ca-na-đề-bà)
đến nhà Ngài nói với cha Ngài:
-
Khi ông 81 tuổi thì cây này không mọc nấm nữa.
Nghe
xong, Tịnh Đức càng thêm thán phục, thưa:
-
Thưa Thầy! Đệ tử đã già yếu, không thể hầu Thầy, xin
Thầy cho đứa con thứ của con theo Thầy xuất gia.
Tổ
bảo:
-
Xưa, Đức Phật đã thọ ký cho đứa bé này là về sau, đến
kỳ thứ nhì của khoảng thời gian 500 năm, sẽ là một vị
đại giáo chủ. Nay gặp đây, quả là phù hợp nhân duyên đời
trước.
Tổ
liền cho Tôn giả xuất gia và làm thị giả. Về sau, Tổ
truyền đại pháp cho Ngài. Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa
đến thành Thất-la-phiệt (Sravasti), truyền pháp cho Tôn giả
Tăng-già-nan-đề (Sanghanandi) rồi ngồi an nhiên trên tòa thị
tịch.
Tán:
Túc
nhân ký phù
Huyền
cơ mặc khế
Thụ
đại pháp tràng
Di
thiên tạp địa
Nhị
thiên niên lai
Tư
tông miên kế
Kham
tiếu nhi tôn
Kình
xoa đoạn tý[1]
Dịch:
Nhân
xưa đã ứng
Thầm
hợp huyền cơ
Dựng
cờ đại pháp
Che
phủ đất trời
Hai
nghìn năm nữa
Tiếp
nối tông này
Nực
cười con cháu
Lấy
chĩa
đoạn tay!
Hoặc
thuyết kệ viết (Tuyên
Công thượng nhân tác):
Tịnh
Đức đạo chủng sản kỳ tài
Viên
hữu dị thọ trưởng nhĩ đài
Tôn
giả thái trích phục sanh khuẩn
Như
Lai thọ ký nhị ngũ bách
Túc
duyên ký phù huyền cơ khế
Hiện
quả khắc chứng diệu luân khai
Tục
Phật tâm đăng quang vô tận
Vạn
kiếp thiên thu vĩnh miễn hoài[2]
Dịch:
Tịnh
Đức khéo tu sinh kỳ tài
Vườn
nhà cây lạ trổ nấm sai
Tôn
giả hái xong nấm lại mọc
Như
Lai thọ ký hai năm trăm
Nhân
trước huyền cơ nay khế hợp
Quả
chứng viên thành diệu lý khai
Nối
đèn tâm Phật soi vô tận
Vạn
kiếp nghìn thu vẫn nhớ hoài.
Giảng:
Tôn
giả, Ca-tỳ-la
quốc nhân, phụ danh
Phạm Ma Tịnh Đức:
Từ Đức Phật Thích-ca từng đời truyền về sau, đây là
vị Tổ đời thứ mười sáu - Tôn giả La-hầu-la-đa. Tôn
giả người nước Ca-tỳ-la, thân phụ ngài là Phạm Ma Tịnh
Đức.
Gia
hữu viên thụ, sanh nhĩ như khuẩn, vị thậm mỹ:
Trong vườn hoa Nhà Tôn giả có một cây thường mọc loại
mộc nhĩ, như nấm dùng để ăn.
Nấm này có hương vị thơm ngọt, nhưng người khác không
thể hái được, Duy Tịnh Đức dữ thứ
tử La-hầu-la-đa
đắc thủ nhi thực, tùy thủ tùy trưởng:
Chỉ có Phạm Ma Tịnh Đức và người con thứ La-hầu-la-đa
mới hái nấm được để ăn và khi hái xong thì nấm lại
mọc. Trong tình huống ấy, cây này trở thành một loại cây
quý.
Nhân
Thập ngũ Tổ
chí kỳ gia, viết: “Nhữ niên bát
thập nhất, thử thụ
bất sanh nhĩ.”:
Một hôm, Tổ thứ mười lăm là Tôn giả Ca-na-đề-bà đến
nhà Ngài, nói với cha Ngài: “Đến khi ông 81 tuổi thì cây này
không còn mọc nấm nữa”.
Tịnh
Đức văn, di gia thán
phục. Thả viết: “Đệ
tử suy lão, bất năng sự Sư,
nguyện xả thứ
tử, tùy Sư xuất
gia.”:
Nghe Tổ thứ mười lăm nói vậy, Tịnh Đức rất kính phục.
Rốt cuộc vì sao cha Ngài kính phục? Vì cha Ngài tin vào lời
nói của Tổ thứ mười lăm, nên Tổ thứ mười lăm nói gì
cha Ngài cũng tin tưởng? Nhân đó, cha Ngài thưa: “Thưa
Thầy! Đệ tử đã già yếu, không thể hầu Thầy được,
xin Thầy cho đứa con thứ hai của con theo Thầy xuất gia tu
học”.
Tổ viết: “Tích Như
Lai ký
thử tử, đương đệ
nhị ngũ bách niên, vi đại giáo chủ. Kim chi
tương
ngộ, cái phù túc
nhân.”:
Tổ thứ mười lăm kể lại rằng, trước đây lối một ngàn
năm, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã từng tiên đoán rằng về
sau, lần thứ nhì của khoảng thời gian 500 năm, đứa nhỏ này
chính là một vị đại giáo chủ của thế gian. Tổ nói:
“Nay gặp cha con ông ở đây, chính là do các quan hệ từ
kiếp xưa. Tất cả đều từ nhân quả mà chúng ta đã gặp
nhau.”
Tức dữ thế
độ, chấp thị,
hậu phó dĩ đại
pháp:
Tổ bèn cho Tôn giả La-hầu-la-đa cắt tóc xuất gia. Tổ cho làm
thị giả, về sau thấy Tôn giả đúng là kẻ chân tu nên
truyền đại pháp cho Ngài (chú 1). Đại pháp chính là tâm pháp.
Đắc
pháp dĩ, hành hóa
chí
Thất-la-phiệt thành (Sravasti),
chuyển phó
dữ Tăng-ca-nan-đề (Sanghanandi), tức an tọa
quy tịch:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả La-hầu-la-đa đến thành
Thất-la-phiệt, Ấn độ và truyền pháp cho Tôn giả Tăng-già-na-đề,
rồi ngồi kiết già, nói với mọi người:
“Ta sắp đi rồi!”. Nói xong, Ngài viên tịch.
Tán
Túc
nhân ký phù, Huyền cơ mặc khế:
Tổ nói đời trước có nhân này, nên phù hợp với nhau! Đức
Phật sớm đã tiên đoán cơ duyên vi diệu này, nên thầm
khế hợp.
Thụ
đại pháp tràng, Di thiên tạp địa:
Dựng một ngọn cờ đại pháp che phủ trời đất, khắp ba
nghìn đại thiên thế giới.
Nhị
thiên niên lai, Tư tông miên kế:
Sau hơn hai nghìn năm, pháp môn đèn tâm của Đức Phật tiếp
tục truyền thừa về sau.
Kham
tiếu nhi tôn, Kình xoa đoạn tý:
Thật
buồn cười! Người đời sau, muốn gánh vác cây chĩa,
lại thành đoạn cánh tay! Vậy là làm hỏng hết! Chẳng
phải lối tu hành chân chánh.[3]
Kệ
Tịnh
Đức đạo chủng sản kỳ tài:
Vì có thiện căn và cội đức xưa, nên trưởng giả Phạm Ma
Tịnh Đức sinh được một cậu con trai đặc biệt, là một
nhân tài tuyệt thế.
Viên
hữu dị thọ trưởng nhĩ đài:
Trong vườn nhà trưởng giả có một cây rất kỳ lạ, cây này
mọc loại nấm như nấm mèo.
Tôn
giả thái trích phục sanh khuẩn:
Tôn giả tức chỉ Tôn giả La-hầu-đa-la. Nếu Ngài hái nấm
ấy thì nấm lại mọc tiếp, còn người khác thì không.
Như
Lai thọ ký nhị ngũ bách:
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hơn một nghìn năm trước đã thụ
ký là về sau La-hầu-la-đa có thể làm đại giáo chủ của
Phật giáo. Hai năm trăm nghĩa
là hai lần năm trăm năm.
Túc
duyên ký phù huyền cơ khế:
Thế là nhân xưa đã phù hợp, cơ huyền diệu không thể nghĩ
bàn cũng khế hợp!
Hiện
quả khắc chứng diệu luân khai: Quả vị của Tổ Sư
hiện tại Ngài đã chứng đắc. Ngài thăng tòa thuyết pháp,
chuyển pháp luân vi diệu, để giáo hóa chúng sinh.
Tục
Phật tâm đăng quang vô tận:
Truyền tâm ấn của Đức Phật cũng là truyền đèn tâm của
Đức Phật, ánh sáng của các ngọn đèn này chiếu soi lẫn
nhau, mãi mãi vô cùng vô tận.
Vạn
kiếp thiên thu vĩnh miễn hoài:
Bất luận sau bao lâu nữa, mọi người đều tưởng nhớ đến
vị Tổ sư này, là Tổ thứ mười sáu –Tôn giả La-hầu-la-đa.
Nói thêm một chút về chuyện nấm mọc trên cây. Theo
trên đã ghi thì chỉ có Phạm Ma Tịnh Đức và La-hầu-la-đa
hái được nấm này, hái xong nấm liền mọc, còn người khác
hái thì không. Đây là đạo lý gì? Ai có ý kiến gì?
Một
chút vấn đề cũng không có? Câu đối tối hôm qua: “Vũ
trụ vạn vật đều thuyết pháp (vũ trụ vạn vật giai
thuyết pháp), ai hiểu được?” Đây chính là thọ thần
ủng hộ vị Tổ này, hiện ra điều linh dị ấy để nói lên
một bài pháp đặc biệt, khiến cho những ai không tin nhân
quả, không tin Phật, cố chấp vào hiểu biết của mình và
những kẻ ngu si, khi chứng kiến sự việc lạ lùng này mà
nẩy sanh tín tâm. Đó là cách biểu hiện ủng hộ Phật pháp
của vị thọ thần ở đó.
Như
lúc Hòa Thượng
Hư Vân truyền giới tại Vân
Nam
, trên cây nở hoa sen trắng, trên tất cả rau cỏ đều có
một hóa Phật xuất hiện. Đó là nguyên nhân gì? Là do đức
hạnh của Hòa Thượng chiêu cảm, cây cối hoa quả ở đó đều
tương ưng để thuyết pháp, nên mới có cảm ứng kỳ lạ này,
là hiện tượng không thể nghĩ bàn. Như vậy, quý vị không
nên cho rằng đây là một việc kỳ lạ. Các câu chuyện về
cảm ứng kỳ lạ của quý Ngài thì không sao nói hết được.
Sự
thể là như vậy nhưng trên thế gian này vẫn có người không
tin Phật, lại còn nói Phật giáo như thế đó là mê tín, là
trái với quy luật khách quan (logic). Cũng có người đi vào
Phật giáo để xem xét, coi thử Phật giáo rốt ráo là như
thế nào. Tuy nhiên, cho dù có ý tưởng xem xét theo như cách
đó, thì cũng phải có một sự nhận thức chân chánh từng
điểm một, cái gì là chánh pháp, cái gì là tà pháp, cái gì
phải tu, cái gì không tu, như vậy dần dà sẽ có ngày tự mình
hiểu rõ sự chân chánh. Vì vậy, giáo nghĩa của Phật giáo là
công khai, mọi người đều có thể nghiên cứu, khảo sát.
Tin hay không còn do nơi chính mình.
(Tuyên
Công thượng nhân giảng vào ngày 7 tháng 8 năm 1981)
Chú
1: Bài
kệ truyền pháp của Tổ thứ mười lăm phó chúc cho Tổ
thứ mười sáu, thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và
Chỉ Nguyệt Lục như sau:
Bổn
đối truyền pháp nhân
Vị
thuyết giải thoát lý
Ư
pháp thực vô chứng
Vô
chung diệc vô thủy[4]
Dịch:
Vốn
đối người truyền pháp
Vì
nói lý giải thoát
Với
pháp thật không chứng
Không
chung cũng không thủy.
No comments:
Post a Comment