Phật Tổ
Đạo
Ảnh
Hư
Vân Lão Hòa
Thượng kết tập
Hòa
Thượng Tuyên Hóa giảng thuật
Tổ
thứ năm: TÔN GIẢ ĐỀ-ĐA-CA
Phiên
âm Hán Việt:
Tôn
giả, Ma Ca Đà quốc nhân dã.
Sanh thời, phụ mộng kim nhật
chiếu diệu
thiên
địa. Trưởng ngộ
Tứ tổ, cầu xuất
gia. Tổ viết:
“Nhữ thân xuất
gia, tâm xuất gia da?”
Đáp viết: “Ngã cầu
xuất gia, phi vi
thân
tâm.” Tổ
viết: “Bất vi thân
tâm, thùy phúc xuất
gia?” Đáp
viết: “Phu xuất
gia giả,
vô ngã ngã
cố, tức tâm bất sanh diệt. Tâm bất sanh diệt, tức thị thường
đạo, chư Phật diệc
nhiên, Tâm vô hình tướng, kỳ thể
diệc
nhiên.” Tổ
viết: “Nhữ đương đại
ngộ, tâm tự linh thông.”
Tức vi thế độ thọ
cụ, phó dĩ Đại
Pháp. Tôn giả đắc pháp dĩ, hành
hóa chí
Trung Ấn Độ, chuyển phó pháp dữ Di Già Ca. Nãi dũng thân hư
không, tác thập bát biến, Hỏa Quang tam-muội, tự phần kỳ
thân.
Tôn
giả Đề-đa-ca (Dhirtaka) người nước Ma-già-đà (Magadha). Lúc
sắp sinh Tôn giả, cha Ngài mộng thấy mặt trời vàng rực
chiếu khắp nơi. Lớn lên, Tôn giả gặp Tổ thứ tư (Ưu-ba-cúc-đa),
liền xin xuất gia. Tổ hỏi:
-Thân ông xuất gia hay tâm xuất gia?
Tôn
giả thưa:
-
Dạ! Con cầu xuất gia không phải vì thân tâm.
-
Không vì thân tâm, vậy ai xuất gia?
-
Phàm người xuất gia đâu có cái ngã của mình nên tâm không
sinh diệt, tâm không sinh diệt thì đúng là thường đạo, chư
Phật cũng thế, tâm không hình tướng, thể của nó cũng vậy.
Tổ
bảo:
-
Lúc ông đại ngộ tâm tự linh thông.
Tổ
liền cho Tôn giả xuất gia, thọ giới Cụ túc và giao phó Đại
Pháp. Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa đến Trung Ấn và truyền
pháp cho Di-già-ca. Sau đó, Tôn giả phóng mình lên hư không,
hiện mười tám thần biến, rồi dùng hỏa quang tam-muội thiêu
thân.
Bài
tán:
Tâm
phi sanh diệt
Dục
ẩn di chương
Pháp
phi thường đạo
Hảo
nhục oan sang
Mộng
trung thuyết mộng
Gia
sửu ngoại dương
Hỏa
Quang tam-muội
Tuyết
thượng gia sương[1]
Dịch:
Tâm
không sanh diệt
Muốn
giấu càng tỏ
Đạo
pháp phi thường
Thịt
bất khoét ương
Trong
mộng nói mộng
Nết
xấu phô trương
Hỏa
Quang tam-muội
Trên
tuyết thêm sương
Kệ rằng:
Phụ
mộng kim nhật Tổ giáng sanh
Bất mê bổn tánh mịch ly trần
Vô ngã xuất gia phi dị diệt
Hữu nguyện thoát tục đoạn khổ nhân
Dữ Phật vi lân tư tề Thánh
Đồng Sư hộ giáo chánh pháp hưng
Hỏa Quang tam-muội phần huyễn thể
Ma cung chấn động quỷ thần kinh[2]
Tuyên
Hóa Thượng nhân tác
Dịch:
Mộng
mặt trời vàng Tổ giáng thần
Linh
căn bất muội quyết ly trần
Xuất
gia vô ngã lìa sanh diệt
Nguyện
ước đời tu dứt khổ nhân
Kết
thân cùng Phật đồng như Thánh
Cùng
Thầy hộ giáo chánh pháp hưng
Hỏa
Quang tam-muội thiêu thân huyễn
Chấn động cung ma khiếp quỷ thần
(Tuyên
Công Thượng Nhân)
Lại có kệ rằng:
Thế
tục phiền não tam giới gia
Mộng
uyển bào ảnh dữ không hoa
Thân
tâm giải thoát ly phân biệt
Trường
đoạn viên dung mẫn sát-na
Hà
đảm Như Lai truyền đại nghiệp
Cao
huyền Tổ ấn chiếu hôn ma
Lâm
hành thị hiện Hỏa Quang định
Tự
tại thần thông diệu vô nhai[3]
Dịch:
Phiền
não thế tục tam giới gia
Mộng
huyễn bóng nước và không hoa
Thân
tâm giải thoát lìa phân biệt
Dài,
ngắn, tròn đầy không khác xa
Gánh
vác đại nghiệp, ngời Phật Tổ
Tổ
ấn cao huyền chiếu muôn nhà
Lâm
chung thị hiện lửa tam-muội
Thần
thông tự tại không gì qua.
(Tuyên
Công Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn
giả, Ma Ca Đà quốc nhân dã.
Sanh thời, phụ mộng kim nhật
chiếu diệu
thiên
địa:
Tổ thứ năm là Tôn giả Đề-đa-ca, người nước Ma-già-đà. Lúc
Ngài sắp chào đời, cha Ngài mộng thấy mặt trời vàng rực
chiếu khắp nơi. (Chú 1)
Trưởng
ngộ
Tứ tổ, cầu xuất
gia:
Khi trưởng thành, Ngài gặp Tổ thứ tư - Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa
liền xin Tổ thứ tư xuất gia.
Tổ
viết:
“Nhữ thân xuất
gia, tâm xuất gia da?”:
Tổ
thứ tư hỏi Ngài: “Ông muốn thân xuất gia hay là tâm xuất
gia?”
Đáp
viết: “Ngã cầu
xuất gia, phi vi
thân
tâm”:
Ngài đáp: “Thưa Ngài! Con xin xuất gia, không phải là thân
xuất gia, không phải là tâm xuất gia và cũng không phải là thân
tâm xuất gia”.
Tổ
viết: “Bất vi thân
tâm, thùy phúc
xuất
gia?”:
Tổ
thứ tư hỏi: “Ông không phải vì thân tâm xuất gia, không
phải vì thân xuất gia, hay tâm xuất gia, vậy rốt cuộc ai xuất
gia?”
Đáp
viết:
Ngài đáp: “Phu
xuất
gia giả:
Thế nào gọi là xuất gia? Xuất gia có: xuất phiền não gia,
xuất hồng trần gia, xuất sinh tử gia, xuất lao ngục gia, xuất
tam giới gia. Người xuất gia, vô ngã ngã
cố:
Không có ngã, cũng không có một cái gì sở hữu của ngã; nếu
không có ngã làm sao có thân và tâm? Tức
tâm bất sanh diệt:
Chính ở trong tâm cũng không sinh không diệt. Tâm
bất sanh diệt, tức thị thường đạo:
Tâm này không sinh cũng không diệt, đây chính là lý chân thường,
một chân lý thường nhiên không thay đổi. Chư
Phật diệc
nhiên:
Chư Phật cũng vậy, cũng là tâm không sinh, không diệt. Tâm
vô hình tướng:
Tâm này không có hình tướng, cũng không phải màu xanh, vàng, đỏ,
trắng hay đen, cũng không phải là dài, ngắn, vuông, tròn. Kỳ
thể
diệc
nhiên:
Thể tính của tâm cũng vậy, cũng không có hình tướng”.
Tổ
viết: “Nhữ đương đại
ngộ, tâm tự linh thông.”:
Tổ thứ tư nói: “Sau này ông đại ngộ sẽ hiểu được; lúc
khai ngộ thì tâm rất sáng, tự nhiên ông sẽ thông suốt!”
Tức
vi thế độ thọ
cụ, phó dĩ Đại
Pháp:
Tổ thứ tư liền cho Ngài xuống tóc xuất gia và truyền thọ
giới Cụ túc. Về sau, Tổ truyền Đại pháp Chánh Pháp Nhãn
Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm cho Ngài. (Chú 2)
Tôn
giả đắc pháp dĩ,
hành hóa
chí
Trung Ấn Độ, chuyển phó pháp dữ Di Già Ca:
Sau khi đắc pháp, Tôn giả du hóa đến vùng Trung Ấn Độ và
truyền pháp cho Tổ thứ sáu - Di-già-ca (Micchaka).
Nãi
dũng thân hư
không, tác thập bát biến, Hỏa Quang tam-muội, tự phần kỳ
thân:
Từ đất Ngài phóng mình lên hư không, hiện mười tám thứ
thần biến. Mười tám thần biến: trên thân ra lửa, dưới thân
ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra nước, ở giữa hư không
đứng, ngồi, nằm; lại hiện nhiều cảnh giới không thể nghĩ
bàn, rồi nhập định Hỏa Quang, dùng lửa tam-muội thiêu thân mình.
Bài
tán:
Tâm
phi sanh diệt, Dục ẩn di chương:
Tâm không sinh không diệt, nếu quý vị muốn che dấu thì nó càng
hiện rõ. Ẩn “隱”
là che dấu cái gì đó; di chương “彌彰”
là càng lộ rõ ra ngoài.
Pháp
phi thường đạo, Hảo nhục oan sang:
Pháp này không có thường đạo nhất định. “Hảo nhục oan
sang” “好肉剜瘡”,
là ý nói ngay trên da thịt lành lặn mà lại tạo ra vết thương
là điều không nên, bởi tự tính của chúng ta và Đức Phật là
như nhau. Nếu miễn cưỡng tạo tác thì có khác gì trên da
thịt lành lặn lại khoét thành vết thương.
Mộng
trung thuyết mộng, Gia sửu ngoại dương:
Chúng ta ở trong mộng lại nói mộng, giống như đem chuyện
xấu trong nhà nói với người ngoài. Gia sửu “家醜”
là nói chúng ta đều ở trong mộng mà lại nói mộng. Ở đây
tất cả đều là hoa trong kính, trăng trong nước, không có gì chân
thật. Những điều chúng ta nói ra đều không phù hợp với pháp.
Hỏa
Quang tam-muội, Tuyết thượng gia sương:
Nhập định Hỏa Quang này, giống như trên tuyết lại thêm sương.
Kệ
rằng:
Phụ
mộng kim nhật Tổ giáng sanh:
Vào
ngày Tổ ra đời, khi mà vị thân sinh nằm
mộng thấy mặt trời màu vàng là lúc Ngài giáng thần. Ở đây,
nói chung cũng theo bát quái. Bát quái của Trung Hoa, hơn một nữa
do từ Ấn Độ truyền sang, người Ấn Độ phần đông cũng theo
bát quái. Nằm mộng chính là nói về chỗ xuất xứ. Vì vậy,
cha Ngài nói đêm qua mộng thấy mặt trời màu vàng, sau đó thì
vị Tổ này ra đời.
Bất
mê bổn tánh mịch ly trần:
Bản tính Ngài không mê muội, nên tìm cách muốn xa lìa cõi
hồng trần này.
Vô
ngã xuất gia phi dị diệt:
Xuất gia chính là vô ngã. Vô ngã là gì? Chính là nói người
xuất gia không có tâm tham danh, lợi, tài, sắc. Tài, sắc, danh, thực, thùy này rõ ràng đều không có
phần của ngã! Phi dị diệt “非異滅”
xuất gia là phải học pháp môn bất sinh bất diệt này, “biết
bản tâm mình, thấy bản tính mình” (thức tự bổn tâm, kiến
tự bổn tánh)[4]
để xa lìa pháp sinh diệt.
Hữu
nguyện thoát tục đoạn khổ nhân:
Xa xưa Ngài đã phát nguyện, muốn đồng chơn[5]
xuất gia nhập đạo, đoạn trừ hết nhân khổ.
Dữ
Phật vi lân tư tề Thánh:
Ngài tu hành, tu hành là được gần gũi Đức Phật. Tư tề thánh
“思齊聖”
là Ngài muốn đồng thể với chư Phật, giống như chư Phật. Thánh
cũng chính là chư Phật.
Đồng
Sư hộ giáo chánh pháp hưng:
Ngài như sư phụ Ngài-chính là Tổ thứ tư hộ trì Phật giáo,
hoằng dương chính pháp, làm Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết Bàn
Diệu Tâm không đoạn diệt.
Hỏa
Quang tam-muội phần huyễn thể:
Đến lúc thị tịch, Ngài nhập tam-muội Hỏa Quang, dùng lửa
ấy thiêu thân giả tạm này. Thân huyễn chính là thân tứ đại
giả hợp huyễn hóa.
Ma
cung chấn động quỷ thần kinh:
Lúc ấy, các cung ma của thiên ma ngoại đạo đều chấn động,
quỷ thần đều kinh sợ. Vì chúng biết lúc này trong thế giới
có Thánh nhân chứng quả, cho nên khiếp sợ.
Lại
có Kệ rằng:
Thế
tục phiền não tam giới gia:
Xuất gia chính là ra khỏi ba nhà: nhà thế tục, nhà phiền não,
nhà Tam giới. Tam giới: là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới.
Mộng
uyển bào ảnh dữ không hoa:
Con người chúng ta giống như mộng huyễn, bọt nước và hoa đốm
giữa hư không.
Thân
tâm giải thoát ly phân biệt:
Nếu thân tâm quý vị đều đạt đến giải thoát thì không còn
sự phân biệt.
Trường
đoạn viên dung mẫn sát-na:
Thế là trong khoảng sát-na cũng không có, cũng không có
thời gian dài, cũng không có thời gian ngắn.
Hà
đảm Như Lai truyền đại nghiệp:
Ngũ Tổ gánh vác chính pháp của Như Lai và truyền thừa gia
nghiệp vĩ đại này.
Cao
huyền Tổ ấn chiếu hôn ma:
Tâm ấn cao huyền này là của những Tổ sư trước. Chiếu hôn
ma “照昏麻”
là chiếu soi những chúng sinh mê muội say sưa mất lý trí.
Lâm
hành thị hiện Hỏa Quang định:
Lúc lâm chung, Ngài thị hiện tam-muội Hỏa Quang.
Tự
tại thần thông diệu vô nhai:
Tự tại và thần thông thâm diệu này không có giới hạn.
Thượng
Nhân Tuyên Công giảng vào ngày 12, tháng11, năm1983.
----------------------------------
Chú
1: Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi:
Tổ
thứ năm là Tôn giả Đề-đa-ca, người nước Ma-già-đà (Magadha
ở Trung Á).
Lúc Ngài ra đời, cha Ngài mộng thấy mặt trời màu vàng từ
trong nhà xuất hiện, chiếu sáng khắp nơi; phía trước lại có
núi lớn trang hoàng bằng nhiều thứ báu, trên đỉnh núi có dòng
suối vọt lên, chảy thành bốn dòng. Về sau, Ngài gặp Tổ Cúc-đa,
Tổ giải thích cho Ngài: “Núi báu là thân ta; dòng suối vọt lên
là pháp vô tận; mặt trời từ trong nhà xuất hiện nay là tướng
ông nhập đạo; chiếu sáng khắp nơi là trí tuệ siêu việt
của ông”. Tôn giả vốn có tên là Chúng Hương, vì có thay đổi
này, Tôn giả mới có tên này. Tiếng Phạn: Đề-đa-ca (Dhirkata),
dịch: Thông Chơn Lượng. Nghe Tổ nói xong, Đề-đa-ca vô cùng vui
mừng, nói kệ:
Nguy
nguy thất bảo sơn
Thường
xuất trí tuệ tuyền
Hồi
vi chân pháp vị
Năng
độ chư hữu duyên[6]
Dịch:
Núi
bảy báu nguy nguy
Thường
hiện suối trí tuệ
Trở
về chơn pháp vị
Độ
những người có duyên
Tổ
Cúc-đa cũng nói kệ:
Ngã
pháp truyền ư nhữ
Đương
hiện đại trí tuệ
Kim
nhật tùng ốc xuất
Chiếu
diệu ư thiên địa[7]
Dịch:
Pháp
ta truyền cho ông
Sẽ
hiện đại trí tuệ
Mặt
trời vàng xuất hiện
Chiếu
sáng rực khắp nơi
Nghe
bài kệ vi diệu của Thầy, Đề-đa-ca đảnh lễ thọ trì.
Chú
2: Bài
kệ truyền pháp của của Tứ Tổ phó chúc cho Ngũ Tổ thấy
trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi:
Tâm
tự bổn lai tâm
Bổn
tâm phi hữu pháp
Hữu
pháp hữu bổn tâm
Phi
tâm phi bổn pháp[8]
Dịch:
Tâm
từ tâm xưa nay
Bổn
tâm không có pháp
Có
pháp có bổn tâm
Không
tâm không bản pháp.
[4]
Hoằng Nhẫn đại sư nói với Huệ Năng đại sư rằng :
“Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích, nhược thức tự
bổn tâm, kiến tự bổn tánh, tức danh trượng phu, thiên nhân
sư, Phật”.
“Không
biết được bổn tâm của mình thì học đạo cũng vô ích. Nếu biết được bổn tâm của mình, thấy được tự tánh
của mình, ấy mới kêu là trượng phu, là thầy của
trời người, là Phật”. (Phẩm Hành Do_Lục Tổ Đàn Kinh)
Lục
Tổ: “Chúng ngươi hãy chú tâm nghe cho rõ. Những người mê
muội đời sau nếu nhận thức được chúng sanh thì nhận
thức được Phật tánh. Bằng chẳng nhận biết chúng sanh, thì
muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ngươi thế
nào biết chúng sanh ở tâm mình, thấy Phật tánh ở tâm mình.
Muốn cầu thấy Phật thì chỉ cần biết chúng sanh. Chỉ vì
chúng sanh mê (không nhận thức được) Phật, chớ chẳng
phải Phật mê (không nhận thức được) chúng sanh. Nếu tánh
mình giác thì chúng sanh là Phật. Bằng tánh mình mê muội, thì
Phật là chúng sanh. Tánh mình bình đẳng, thì chúng sanh là
Phật. Tánh mình tà hiểm, thì Phật là chúng sanh. Nếu tâm chúng
ngươi hiểm khúc tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm
bình đẳng, ngay thật, tức là chúng sanh thành Phật. Tâm ta
tự có Phật, Phật ở tâm mình, mới thiệt là chơn Phật.
Nếu tự mình không có tâm Phật, thì tìm chơn Phật ở nơi nào?
Cái tự tâm của chúng ngươi là Phật, chớ khá hồ nghi.
Thực
sự thì, ngoài cái tâm không có một vật gì tạo được, mà
chính cái Bổn tâm sanh ra chủng chủng pháp. Cho nên Kinh nói:
‘Tâm sanh thì chủng chủng pháp đều sanh, tâm diệt thì
chủng chủng pháp đều diệt.’
Nay
ta để lại một bài kệ đặng từ biệt chúng ngươi. Bài
kệ nầy gọi là ‘Tự Tánh Chơn Phật Kệ’ – Bài kệ nói
về chơn Phật ở nơi tánh mình. Người đời sau biết được
cái ý chỉ của bài kệ nầy, thì tự mình thấy Bổn tâm,
tự mình thành Phật đạo.”
(Phẩm Phó Chúc)
[5]
Đồng chơn nghĩa là “non trẻ và trong sạch”, ý nói là
xuất gia lúc còn bé, khi còn thanh tịnh, thuần khiết, vô tư.
No comments:
Post a Comment