Tôn
giả, nam Ấn-độ Thiên Đức vương chi thứ tử. Đầu
Bà-Xá Tổ xuất gia. Tổ vấn viết: “Nhữ dục
xuất gia đương vi hà sự?” Viết: “Ngã nhược
xuất gia, bất vi tục sự.” Tổ viết: “Đương
vi hà sự?” Viết: “Đương vi Phật sự.” Tổ phó
dĩ Đại Pháp. Du hóa chí đông Ấn Độ, bỉ vương
danh Kiên Cố, phụng ngoại đạo sư trường trảo
Phạm Chí, tức dĩ ảo pháp hóa đại sơn ư tôn
giả đỉnh thượng. Tôn giả chỉ chi, hốt tại
bỉ chúng đỉnh thượng. Bỉ chúng bố cụ, đầu
Tổ. Tổ tái chỉ chi, hóa sơn tùy diệt. Nãi vị vương
diễn pháp, tỉ thú chân thừa. Hậu đắc Bát-Nhã-Đa-La,
tức từ vương viết: “Ngô hóa duyên dĩ chung,
đương quy tịch diệt.” Tức hoàn bản tọa, già
phu nhi thệ.
Tôn
giả là người xứ nam Ấn-Độ và là con thứ của
vua Thiên Đức. Ngài xuất gia theo Tổ Bà-Xá. Tổ
hỏi: “Ngươi muốn xuất gia để làm gì? Đáp:
“Nếu xuất gia con sẽ không làm việc đời.”
Tổ nói: “Ngươi làm việc gì?” Đáp: “Con làm
Phật sự.” Tổ truyền đại pháp cho tôn giả. Tôn
giả đi du hóa miền đông Ấn-Độ, gặp lúc vua nước
ấy tên là Kiên Cố tôn thờ vị thầy của ngoại
đạo Phạm Chí và họ dùng ảo thuật biến hóa
một quả núi trên đỉnh đầu của tôn giả. Tôn
giả lấy tay chỉ thì quả núi hốt nhiên bay qua trên
đầu của các chúng ngoại đạo. Số người này
hoảng sợ, xin quy phục Tổ. Tổ lại lấy tay chỉ,
quả núi liền tan mất. Tổ giảng giải pháp cho vua
khiến vua hướng về
đại thừa. Về sau, gặp Bát-Nhã-Đa-La, Tổ bèn
từ giã vua: “Nay, việc hóa duyên của tôi đã
hết, tôi về nơi tịch diệt.” Kế đó trở về
chỗ, ngồi kiết già mà thị tịch.
Tán
viết:
Trí
huệ túc bồi
Sư
kỳ nãi thánh
Hàng
bỉ quần ma
Tà
bất thắng chánh
Thụy
triệu hữu trưng
Vương
giả tín kính
Bất
động nguy nguy
Dịch:
Trí
huệ kiếp xưa
Vị
thầy bậc thánh
Hàng
phục bầy ma
Tà
chẳng thắng chánh
Điềm
lành chứng minh
Nhà
vua tin kính
Lồng lộng lặng lẽ
Núi
đạo cao ngất.
Hoặc thuyết kệ viết:
Xuất
gia nhữ dục tác hà sự
Bất
vi tục vụ á dương tăng
Chấn
hưng Phật giáo hoằng chánh pháp
Tạo
tựu lương tài tục truyền đăng
Ảo
thuật thành sơn chung tự diệt
Định
lực độ hải thủy kiến chân
Trường
trảo hàng phục quốc vương tín
Hóa
duyên dĩ tất ngô đương hành[2]
Dịch:
Ngươi muốn xuất gia tính chuyện gì
Việc
đời lìa bỏ kiếp ngu ngơ
Chấn
hưng Phật giáo hoằng dương đạo
Nối
tiếp truyền đăng tạo pháp tài
Ảo
thuật núi kia đâu mất dạng
Định sâu độ khắp rõ mười phân
Móng dài[3]
hàng phục vua tin kính
Duyên hóa vừa xong đã giã từ.
Giảng
:
Tôn giả, nam Ấn-độ
Thiên Đức vương chi thứ tử:
Vị Tổ sư đời thứ 26 tức tôn giả Bất-Như-Mật-Đa
là người miền nam xứ Ấn Độ và là con thứ 2
của vua Thiên Đức. Đầu Bà-Xá Tổ xuất gia: Ngài theo Tổ Bà-Xá xuất gia.
Tổ
vấn viết: “Nhữ dục xuất gia đương vi hà
sự?”:
Tổ thứ 25 Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả rằng: “Ông
muốn xuất gia là để làm gì?”
Viết:
“Ngã nhược xuất gia, bất vi tục sự.”:
Nếu con xuất gia thì con sẽ lìa bỏ mọi việc
thế gian, không làm việc đời nữa.”
Tổ
viết: “Đương vi hà sự?”:
Tổ lại hỏi: “ Chuyện thế gian không làm nữa thì
ông làm việc gì?”
Viết:
“Đương vi Phật sự.”:
Tôn giả đáp: “Việc tôi làm chỉ là Phật
sự.”
Quý
vị nghĩ coi! Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa nói rằng
sau khi xuất gia Ngài sẽ không làm việc thế tục,
như vậy có nghĩa là mọi vấn đề về tình cảm
sẽ gác ra ngoài, hết tình hết ái, các thứ ham
muốn hay yêu thương đều dẹp bỏ. Ngài thoát ly
hẳn đời trần tục, xa lìa mọi sự tình của người
thế gian, những điều mong cầu của người đời.
Điều Ngài làm toàn là những việc xuất thế gian
và tất cả dành cho Phật sự.
Phật sự là những việc gì đây? Tỷ như ở
đây chúng ta phiên dịch kinh điển, mang những văn
tự khác nhau phiên dịch ra thành văn tự giống
nhau, rồi từ văn tự giống nhau diễn ra các văn
tự khác nhau, vậy là làm Phật sự. Tỷ như chúng
ta nói pháp giảng kinh, niệm Phật, quá
đường thọ trai, cho đến việc tọa thiền thường
ngày, dụng công tu tập, những thứ đó đều gọi
là Phật sự cả. Chúng ta dẹp bỏ các thứ vọng
niệm, gom tâm lại một chỗ, khiến trong tâm được
thanh tịnh tức là làm hết mình cho Phật sự. Như
quý vị giữ trong tâm không có tạp niệm, không có
dục niệm, thì như vậy chính là làm Phật sự
rất lớn lao đó. Bởi vậy mới có câu:
Tâm
dừng niệm tuyệt chân phú quý
Tư
dục đoạn tận chân phúc điền
Có nghĩa là khi dừng tâm lại, bặt các niệm
thì đó là phú quý chân thật; đoạn trừ được
tham dục mới là ruộng phước thực sự.
Hết lòng làm việc cho Phật sự và không làm
việc đời là lời nói của tôn giả Bất-Như-Mật-đa.
Tuy thời của Ngài cách xa chúng ta hàng ngàn năm nhưng
những lời nói đó đến nay vẫn còn vẳng bên tai
chúng ta, những gì Ngài đã làm thì nay vẫn đương
làm, chí nguyện của Ngài ra sao thì nay vẫn còn
tồn tại. Chúng ta là người xuất gia phải lấy câu
“kiến hiền tư
tề” làm châm ngôn, nghĩa là trông gương các
vị thánh hiền mà nối gót theo cho bằng. Từ đó
chúng ta phải noi theo hành động của các vị Tổ sư,
tư tưởng của các Ngài, đạo đức của các Ngài,
chí nguyện của các Ngài mà làm giống như vậy. Có
câu nói: “Thuấn hà nhân dã? Dư hà nhân dã? Hữu vi giả diệc nhược
thị.”[4]
Chúng ta có thể đổi câu này thành: “Tổ
sư hà nhân dã? Ngã hà nhân dã?”Chúng ta nên ráng
sức tu hành, ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được
khai ngộ, cho nên phải “kiến hiền tư tề, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã”,
theo gương thánh hiền mà bắt chước, thấy kẻ
chẳng hiền thì phải tự xét mình lại. Khi gặp
hạng người xấu, chúng ta quay về mình quán
chiếu, suy xét: “A! Ta không nên bắt chước họ,
phải sửa đổi mình hướng theo cái tốt.” Chúng
ta đã xuất gia chẳng phải chỉ vì cái danh xuất
gia - trong đầu không nên có cái danh đó - mà phải
là người xuất gia thật sự, với tất cả sự chân
thành của mình, điều này là quan yếu nhất.
Tổ Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa
lý do xuất gia chính là muốn nhắc lại tiền duyên
xưa của tôn giả để Ngài nhớ lại căn lành trước
đây là không làm việc đời mà chỉ dành hết
tất cả cho Phật sự.
Tổ
phó dĩ đại pháp:
Sau khi nghe tôn giả trả lời, Tổ bèn truyền lại
cho tôn giả pháp lớn tức là Diệu pháp Tâm ấn,
pháp liễu sanh thoát tử.
Du
hóa chí đông Ấn Độ:
Tôn giả đi giáo hóa tới miền đông Ấn Độ. Bỉ
vương danh Kiên Cố, phụng ngoại đạo sư trường
trảo Phạm Chí: Khi ấy vua ở nơi này, tên là
Kiên Cố đương tôn thờ một vị thầy ngoại đạo
làm sư phụ. Phạm Chí chỉ người tu hạnh thanh tịnh, còn trường trảo tức là móng dài, đây là móng tay mọc dài
ra mà không cắt, nên những móng tay đó rất là dài.
Thầy “Phạm Chí móng tay dài” là nghĩa gì, các
vị biết không? Theo lời tôi kể thì đó chẳng qua
là một trường hợp lười biếng! Quý vị nghĩ
thử coi! Móng tay không chịu cắt thì đâu còn làm
lụng cái gì được nữa? Thậm chí ăn cũng phải có
người bón cho, bởi vì, nếu không ai bón cho ăn
khiến y phải tự xoay sở lấy cho mình, lúc đó các
móng tay sẽ hư hoại hết thì sao? Y bảo vệ móng
tay chẳng khác gì bảo vệ sinh mạng của y vậy. Đại
khái y bảo rằng: “Ấy! Không thể cử động được
đâu! Ta là như vậy đó!”. Cũng
giống như kiểu Milarepa hay số ngoại đạo phái lõa
thể, tu một loại pháp gì đó chuyên để móng tay
dài. Nhà vua trông thấy vậy tưởng y là thần thánh,
kỳ thực y không có khả năng làm một công việc gì
nên lấy cớ tu đạo để hưởng nhàn, an dưỡng cái
thân, không làm điều gì lợi ích cho mọi người vì
chính cái thân mình cũng không lo trọn.
Tức
dĩ ảo pháp, hóa đại sơn ư tôn giả đỉnh thượng:
Vị thầy Phạm Chí này có ảo thuật, biết làm trò
biến hóa, một loại ma thông, quỷ thông, chớ không
phải là thần thông. Tỷ
như Milarepa tự
xưng mình là siêu việt, siêu hơn các vị xuất gia,
tự cho mình giống như đức Phật vậy! Điều này
là một sự ngã mạn lớn, một loại tà kiến,
khiến cho nhiều người hiểu sai lạc [6]
Vị
Phạm Chí móng tay dài này biết trò ma thuật, ảo
thuật. Gọi là ảo vì nó chẳng phải chân thực,
một loại pháp hư dối. Khi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa
tới, y sợ rằng nhà vua sẽ đổi theo đạo khác, nên
làm phép biến hóa ra một trái núi, hiện ngay trên
đầu của tôn giả.
Tôn
giả chỉ chi, hốt tại bỉ chúng đỉnh thượng:
Tôn giả bèn lấy tay chỉ một cái, tức thì trái núi
liền bay qua, áp trên đầu của vị thầy Phạm Chí
và đám đệ tử của y. Bỉ chúng bố cụ, đầu Tổ: Đám đệ tử rất sợ hãi,
họ bèn quay sang quy phục Tổ. Tổ
tái chỉ chi, hóa sơn tùy diệt: Tổ lại lấy
tay chỉ vào trái núi, cả tòa núi lớn liền biến
mất dạng.
Nãi
vị vương diễn pháp, tỉ thú chân thừa:
Lúc đó Tổ Bất-Như-Mật-Đa thuyết pháp cho vua
nghe, khiến cho vua được quay về vói pháp Đại
thừa chân chánh.
Hậu
đắc Bát-Nhã-Đa-La, tức từ vương viết:
Về sau, Tổ truyền pháp tâm ấn cho tôn giả Bát-Nhã-Đa-La
rồi nói lời giã biệt với quốc vương như sau:
“Ngô hóa duyên dĩ chung, đương quy tịch diệt.”:
“Nhân duyên giáo hóa của tôi đã đầy đủ rồi,
bây giờ tôi phải đi về cảnh giới tịch
diệt.” Tức hoàn bản tọa, già phu nhi thệ: Nói xong, Tổ trở
về chỗ của Ngài, ngồi kiết già mà vãng sanh.
Tán:
Trí
huệ túc bồi, Sư kỳ nãi thánh:
Trí huệ của Ngài là do sự vun trồng từ những
kiếp xưa. Thầy của Ngài là một bậc thánh, Ngài
cũng là một bậc thánh. Mấy chữ “sư
kỳ nãi thánh” có thể giải thích theo hai cách:
chữ “sư” có thể cắt nghĩa là thầy của Ngài,
nên câu này có thể hiểu là thầy của Ngài là
một vị thánh; chữ “sư” cũng có thể chỉ chính
Ngài, nên mấy chữ trên nói rằng đích thân Ngài là
một vị thánh.
Hàng
bỉ quần ma, Tà bất thắng chánh:
Ngài đã hàng phục vị thầy Phạm Chí cùng tất
cả số ngoại đạo, điều đó chứng tỏ rõ rệt
là tà không thể thắng được chánh.
Thụy
triệu hữu trưng,Vương giả tín kính:
Chữ “trưng” nghĩa là chứng minh. Ánh sáng lành
đó – thụy triệu – đã chứng minh cho nhà vua trông thấy rõ
lẽ “tà chẳng thắng chánh”, nghĩa đại thừa
mới là chân thực, từ đó nhà vua mới tin theo
Phật giáo.
Bất
động nguy nguy, Đạo sơn vạn nhận:
Ngài thì luôn luôn an nhiên, lặng lẽ, bất cứ
cảnh ngộ nào cũng không làm Ngài dao động. Đạo
đức và giáo pháp của Ngài cao vòi vọi như một tòa
núi, không ai phá nổi.
Kệ:
Xuất
gia nhữ dục tác hà sự:
Tổ Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa:
“Người muốn xuất gia để làm gì?”
Bất
vi tục vụ á dương tăng:
Tôn giả trả lời: “Xuất gia, thì con sẽ không làm
việc gì thuộc về người thế tục, giống loại
người ngu ngơ, không biết suy xét phân biệt.
Chấn
hưng Phật giáo hoằng chánh pháp:
Tổ Bà-Xá-Tư-Đa lại hỏi: “Vậy người làm
việc gì?”Tôn giả đáp: “Con làm Phật sự, bởi
vì con phải chấn hưng Phật giáo chân chánh cùng
hoằng dương Phật pháp.”
Tạo
tựu lương tài tục truyền đăng:
Tôn giả nói Ngài sẽ đào tạo hiền tài của
Phật giáo, nối tiếp việc truyền đăng.
Ảo
thuật thành sơn chung tự diệt:
Trái núi do trò ảo thuật của ngoại đạo biến hóa
ra, quả là đáng sợ. Tuy nhiên, nó cũng tiêu tan
mất dạng! Lý do là định lực của tôn giả đã
thắng tà thuật, tà không thắng chánh được.
Định
lực độ hải thủy kiến chân:
Độ hải nghĩa là cứu độ khỏi sự hiểm nghèo của
bể khổ. Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa phá trò ảo
thuật, do Ngài dùng định lực của Ngài, loại định
lực độ hải có
năng lực giải trừ mọi hiểm nguy. Điều đó tỏ
rõ công phu chân chánh của Ngài.
Trường
trảo hàng phục quốc vương tín:
Phạm Chí móng dài đã bị Ngài hàng phục, nhà vua
tỏ lòng sùng tín, điều đó cũng là do công phu chân
chánh mới có được sự cảm ứng đạo giao đó.
Hóa
duyên dĩ tất ngô đương hành:
Nay thì mọi việc làm của ta đã lo xong, không còn
gì khác nữa, ta phải đi đây! Đại sự đã chu toàn,
việc sanh tử đã giải quyết, đối với ta chẳng
có gì còn lại; ta phải giáo hóa những ai thì tất
cả đều được giáo hóa rồi, do đó ta cũng
thuận theo quan niệm của người đời là ta sẽ
về nơi tịch diệt, nơi đạo tràng bất động.
Chú:
Bài
kệ truyền pháp của Tổ thứ 25
phó chúc cho Tổ thứ 26
thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ
Nguyệt Lục ghi
như sau:
Thánh
nhân thuyết tri kiến
Đương
cảnh vô thị phi
Ngã
kim ngộ chân tánh
Dịch:
Thánh
nhân nói tri kiến
Ngay
cảnh chẳng sai đúng
Nay
ta ngộ chân tánh
Không
đạo cũng không lý
[1]
智慧宿培 師其乃聖 降彼群魔 邪不勝正
瑞兆有徵 王者信敬 不動巍巍 道山萬仞
[2]出家汝欲作何事 不為俗務啞羊僧
振興佛教弘正法 造就良才續傳燈
幻術成山終自滅 定力渡海始見真
長爪降伏國王信 化緣已畢吾當行