Monday, October 6, 2014

Tổ thứ 28 : Đại Sư Bồ-Đề-Đạt-Ma

Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật 



Tổ thứ 28 : Đại Sư  Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma)
 
Nhị Thập Bát Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma Đại Sư
 
Tổ, nam Thiên Trúc Hương Chí vương tam tử dã, tính sát đế lị. Sơ, vương cung dưỡng Bát-Nhã-Đa-La, nhân thí dĩ bảo châu. Tổ phát minh tâm địa, Bát-Nhã toại phó pháp. Kệ viết: “Tâm địa sanh chư chủng, nhân sự phục sanh lý; quả mãn bồ đề viên, hoa khai thế giới khởi.” Tổ đắc pháp cửu chi, niệm Chấn-Đán duyên thục, hàng hải lai Lương. Để Quảng, thứ sử Tiêu Ngang, biểu văn Vũ Đế. Nãi chiếu kiến, vấn: “Như hà thị thánh đế đệ nhất nghĩa?” Tổ viết: “Khuếch nhiên vô thánh.” Viết: “Đối trẫm giả thùy?” Tổ viết: “Bất thức.” Đế bất khế. Tổ do thử độ giang, thiệp Ngụy, chí Tung. Thiểu hậu, đắc Thần Quang, thọ dĩ đại pháp. Nãi giai đồ vãng Vũ môn Thiên Thánh tự, tọa hóa, táng Hùng Nhĩ sơn. Đường Đại tông thụy ‘Viên Giác Đại Sư’, tháp viết Không Quán.
 
Tổ là người miền nam Thiên trúc và là con thứ ba của vua Hương Chí, thuộc giòng sát-đế-lị. Nhân khi vua cúng dường tôn giả Bát-Nhã-Đa-La có sự việc bảo châu được đưa ra hỏi thử. Tổ phát minh tâm địa, tôn giả Bát-Nhã bèn truyền pháp cho Tổ và đọc kệ như sau:
 
Đất tâm sanh các giống
Nhân sự lại sanh lý
Quả chín bồ đề tròn
Hoa nở thế giới sanh
 
Một thời gian lâu sau ngày được pháp, Tổ nghĩ cơ duyên hoằng pháp với Trung Hoa đã tới, Ngài đi đường biển qua, nhằm đời nhà Lương. Khi đặt chân lên đất Quảng, thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu báo tin lên Võ Đế. Đế hạ chiếu mời về Kinh đô. Đế hỏi: “Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?” Tổ nói: “rổng rang không thánh.” Hỏi: “Đối diện với trẫm là ai?” Tổ đáp: “Không biết.” Thấy vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ đi sang sông, qua đất Ngụy, rồi đến núi Tung sơn. Ít lâu sau, gặp đại sư Thần Quang, Tổ truyền lại đại pháp. Sau đó, Ngài cùng đồ chúng đến chùa Thiên thánh tại Vũ Môn. Ngài ngồi yên thị tịch và được an táng trong núi Hùng Nhĩ. Đường Đại tông ban thụy hiệu của Ngài là “Viên Giác Đại Sư”, tháp hiệu là Không Quán.
 
 
Tán viết:
 
Chấn Đán sơ lai
Đối trẫm bất thức
Khoa cữu hân phiên
Sao không xuất huyết
Đắc đoạn tý nhân
Hùng phong lộ tuyệt
Phân tủy phân bì
Sương thượng gia tuyết[1]
 
              Dịch:
Chấn Đán mới đến
Đối trẫm không biết
Vết cũ lật ngược
Gõ trống (rỗng) xuất huyết
Gặp kẻ chặt tay
Núi Hùng hết lối
Chia tủy chia da
Trên sương thêm tuyết
 
 
Hoặc thuyết kệ viết:
 
Chấn Đán duyên thục Đạt-Ma lai
Đối trẫm bất thức cơ vị cai
Thần Quang Hùng Nhĩ quỵ cửu tải
Huệ Khả tích tuyết tý độc tài
Dĩ tâm ấn tâm phó đại pháp
Sơ tổ nhị tổ tục mạng mạch
Lục thứ thọ hại hào vô tổn
Chích lý tây quy lưu vĩnh hoài[2]
 
                    Dịch:
 
Đủ duyên sơ Tổ qua Đông độ
Trước trẫm là ai vua chẳng ngộ
Thần Quang Hùng Nhĩ quỳ chín năm
Huệ Khả chặt tay đầu đội tuyết
Pháp lớn truyền trao tâm ấn tâm
Huệ mạng từ Sơ đến Nhị Tổ
Ám hại sáu lần chẳng mảy may
                                       Chiếc giầy để lại ngàn năm nhớ
 
Ghi chú của ban biên soạn: Tổ sư Đạt-Ma lại là Sơ Tổ của dòng Trung Quốc, do đó để quý vị độc giả có một cái nhìn suốt tận cội nguồn đối với lịch sử truyền đăng của chư Tổ, ở tập này chỉ đăng phần chánh văn, còn phần giảng bằng bạch thoại sẽ được đăng trong tập 2 của Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (Thiền Tông Sơ kỳ Tổ Sư).

 

[1]震旦初來 對朕不識 窠臼掀翻 敲空出血
得斷臂人 熊峰路絕 分髓分皮 霜上加雪
 
[2] 震旦緣熟達摩來 對朕不識機未賅
神光熊耳跪九載 慧可積雪臂獨裁
以心印心付大法 初祖二祖續命脈
六次受害毫無損 隻履西歸留永懷

Tổ thứ 27: Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La

Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật 



Tổ thứ 27: Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La (Prajnatara)
 
Nhị Thập Thất Tổ Bát-Nhã-Đa-La Tôn giả
 
Tôn giả, đông Ấn Độ nhân. Nhân quốc vương dữ Bất-Như-Mật-Đa Tổ (chú 1), đồng xa nhi xuất, tôn giả kê thủ ư tiền, Tổ viết: “Nhữ ức vãng sự phủ?” Đáp viết: “Ngã niệm viễn kiếp trung, dữ sư đồng cư, sư diễn Ma-ha Bát-nhã, ngã chuyển thậm thâm tu-đa-la. Kim nhật chi sự,  cái khế tích nhân.” Tổ nãi vị vương viết: “Thử tử phi tha, tức Đại Thế Chí bồ tát thị dã.” Hậu nam Ấn Độ quốc vương, nhất nhật thỉnh tôn giả, trai thứ, vương vấn: “Chư nhân tận chuyển kinh, duy sư vi thậm bất chuyển.” Tôn giả viết: “Bần đạo xuất tức bất tùy chúng duyên, nhập tức bất cư ấm giới. Thường chuyển như thị kinh, bách thiên vạn ức quyển, phi đản nhất quyển lưỡng quyển.” Hậu chuyển phó Bồ-Đề-Đạt-Ma, lưỡng thủ các phóng quang minh, hóa hỏa tự phần. 
 
Tôn giả là người miền đông xứ Ấn-Độ. Nhân khi quốc vương cùng Tổ Bất-Như-Mật-Đa ngồi chung xe đi ra ngoài, tôn giả tới phía trước vái lạy. Tổ nói: “Ngươi nhớ việc xưa chăng?” Tôn giả đáp: “Con nhớ vào kiếp xa xưa, con cùng thầy ở chung một nơi, thầy giảng Ma-ha Bát-nhã, con giảng tu-đa-la thậm thâm, nay gặp đây chính là hợp với duyên xưa đó.” Tổ nói với vua: “Đồng tử này không phải ai khác mà là hóa thân của bồ tát Đại Thế Chí vậy.” Về sau, vua xứ nam Ấn Độ thỉnh tôn giả cúng dường. Khi thọ trai xong, nhà vua hỏi Ngài: “Mọi người đều tụng kinh, sao riêng một mình thầy là không tụng kinh vậy?” Tôn giả nói: “Bần đạo thở ra không tùy theo các duyên, hít vào thì chẳng ở trong ấm giới, thường là tụng niệm kinh này, trăm ngàn vạn ức quyển, chẳng phải chỉ một hay hai quyển.” Về sau Tổ truyền pháp lại cho Bồ-Đề-Đạt-Ma, hai tay phóng hào quang, hóa lửa tự thiêu mình.
 
Tán viết:
 
Viễn kiếp đồng cư
Đương diện tác thiết
Thị Thế Chí lai
Bỉ thử nhiêu thiệt
Trửu hậu huyền phù
Thông minh khuếch triệt
Chuyển như thị kinh
Dương xuân bạch tuyết[1]
 
        
            Dịch:
Kiếp trước đồng cư
Tiết lộ mọi người
Hóa thân Thế Chí
Hai bên nhiều lời
Đạo bùa đeo tay
Thông minh sáng láng
Chuyển loại kinh đó
Tuyết trắng mùa xuân. 
 
Hoặc thuyết kệ viết:
                                   (Tuyên công Thượng Nhân tác)
 
Hữu hà nhân duyên kim tương ngộ
Viễn kiếp đồng trú hữu trùng phùng
Sư diễn Ma ha thâm Bát nhã
Dư chuyển Diệu Pháp Liên Hoa kinh
Vương thỉnh ứng cúng trai thứ tất
Tăng vị hồi hướng chúc khang bình
Hô hấp bất cư ấm xứ giới
Giải thoát tự tại mãn thái hư[2]
 
          Dịch:
 
Dám hỏi duyên nào nay gặp gỡ
Kiếp xưa cùng trú lại tao phùng
Thâm sâu Bát Nhã thầy chuyên giảng
Con thuyết Liên Hoa Diệu Pháp kinh
Bầy tiệc trai tăng vua cung dưỡng
Trai xong hồi hướng cảnh thanh bình
Hít thở xa lìa mười tám giới
An nhiên tự tại khắp mười phương
 
        Thượng nhân Tuyên hóa soạn
 
Giảng thoại:
 
 
Tôn giả, đông Ấn Độ nhân. Nhân quốc vương dữ Bất-Như-Mật-Đa Tổ, đồng xa nhi xuất, tôn giả kê thủ ư tiền: Vị Tổ sư đời thứ 27 giòng Thiền Tây thiên là tôn giả Bát-Nhã-Đa-La. Ngài người miền đông xứ Ấn-Độ. Một hôm, vị vua ở nơi này cùng với Tổ thứ 26 là Bất-Như-Mật-Đa ngồi chung xe đi ra ngoài thành. Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La lúc bấy giờ hãy còn là một đồng tử, đương đi hành khất trên đường, thấy vậy đến trước xe hỏi han Tổ.
 
Tổ viết: “Nhữ ức vãng sự phủ?”: Tổ hỏi tôn giả Bát-Nhã-Đa-La : “Ngươi có nhớ việc xưa chăng?”
 
Đáp viết: “Ngã niệm viễn kiếp trung, dữ sư đồng cư, sư diễn Ma-ha Bát-nhã, ngã chuyển thậm thâm tu-đa-la. Kim nhật chi sự,  cái khế tích nhân.”: Tôn giả Bát-Nhã-Đa-La đáp lại như sau: “Con còn nhớ lúc xưa,  thuở ấy rất xa xưa, con cùng thầy ở chung một nơi. Hồi đó thầy giảng kinh Đại Bát-Nhã, còn con thì tụng niệm, nghiên cứu và giảng thuyết kinh Tu-đa-la thậm thâm, tức kinh điển về Đại thừa. Hôm nay, con gặp thầy ở đây chính là hợp với nhân duyên xưa đó!
 
Tổ nãi vị vương viết: “Thử tử phi tha, tức Đại Thế Chí bồ tát thị dã.”: Tổ nói với nhà vua: “Đồng tử này không là ai khác mà là hóa thân của bồ tát Đại Thế Chí, một trong ba vị thánh ở phương tây (Chú 2).
 
Hậu nam Ấn Độ quốc vương, nhất nhật thỉnh tôn giả, trai thứ, vương vấn: “Chư nhân tận chuyển kinh, duy sư vi thậm bất chuyển.”: Một hôm nhà vua thỉnh tôn giả Bát-Nhã-Đa-La về cung cúng dường trai tăng. Thọ trai xong, vua hỏi Ngài: “Hiện nay chúng tôi thấy hết thảy mọi người đều thuyết pháp, tụng kinh, sao chỉ riêng một mình tôn giả là không tụng kinh vậy?”
 
Tôn giả viết: “Bần đạo xuất tức bất tùy chúng duyên…: Ngài nói: “Bần đạo hít thở, nhưng hơi thở ra không tùy theo các duyên… có nghĩa là vào giòng đời mà không nhiễm thói đời, không hòa theo trần tục. ..nhập tức bất cư ấm giới: Khi thở vào thì không ở trong 5 ấm, tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không ở trong mười tám giới… thường chuyển như thị kinh, bách thiên vạn ức quyển: Bần đạo thường niệm loại kinh này, niệm đến trăm ngàn vạn ức quyển; …phi đản nhất quyển lưỡng quyển: chớ không phải là chấp vào công phu niệm một hay hai quyển kinh đâu! Từng giờ từng khắc, không lúc nào là chẳng niệm kinh.”
Về mười tám giới thì có 6 căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý; 6 trần là sắc thanh hương vị xúc pháp; 6 thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
 
Hậu chuyển phó Bồ-Đề-Đạt-Ma, lưỡng thủ các phóng quang minh, hóa hỏa tự phần: Về sau, tôn giả Bát-Nhã-Đa-La truyền diệu pháp tâm ấn cho tôn giả Bồ-Đề-Đạt-Ma. Kế đó hai tay Ngài cùng phóng hào quang, biến thành lửa tam muội, lấy lửa đó tự thiêu thân mình.
 
 
Tán:
 
Viễn kiếp đồng cư, Đương diện tác thiết: Vào một kiếp xa xưa hai Ngài cùng ở chung một nơi. “Đương diện tác thiết” có nghĩa là trước mặt mọi người, đem những câu chuyện kín ra nói, như là nói lén, tiết lộ thiên cơ.
 
Thị Thế Chí lai, Bỉ thử nhiêu thiệt: Nói việc bồ tát Đại Thế Chí hóa thân. Chuyện này mang ra nói thì kể như là quá nhiều lời – nhiêu thiệt. Cả hai bên, Tổ Bất-Như-Mật-Đa và tôn giả Bát-Nhã-Đa-La, đều nhiều lời.
 
Trửu hậu huyền phù, Thông minh khuếch triệt: Phía sau khuỷu tay có treo một đạo bùa, bùa này chính là mệnh lệnh, trao gửi một quyền lực và, như trên đã nói tới, đó là trách nhiệm phải diễn xuất một tấn tuồng, tuồng truyền tâm ấn Phật. Tư chất của tôn giả thì “thông minh khuếch triệt”, vậy có nghĩa là thông suốt, sáng láng, có một trí huệ tuyệt vời.
 
Chuyển như thị kinh, Dương xuân bạch tuyết: Loại kinh tụng niệm ở đây là chân kinh, kinh không có chữ, giống như tuyết trắng mùa xuân, trắng ngần như vậy, khi gặp thời tiết xuân đến sẽ tan đi. Vị Tổ sư đây không theo hoàn cảnh, không tùy theo các thứ duyên, bởi vậy Ngài không giống như mọi người khác, siêu việt tất cả, không ở trong sự cấu tạo của ngũ hành, một mình đứng riêng, vượt lên cao vút!    
 
Lại có kệ rằng:

Bài kệ tám câu sau đây cũng chỉ là tóm tắt các đoạn văn và bài tán ở phần trên rồi nhắc lại các ý chính. Gọi là kệ tụng chính là lược thuật đại ý những gì đã kể qua; sau đoạn “trường hàng” thì đến phần “trùng tụng”, nội dung của 2 phần này tương tự như nhau, có điều “trùng tụng” thì được thâu gọn lại.
 
Hữu hà nhân duyên kim tương ngộ: “Vì nhân duyên gì mà ngày hôm nay chúng ta gặp nhau, ngươi có nhớ chăng?” Đó là câu mà Tổ Bất-Như-Mật-Đa hỏi tôn giả Bát-Nhã-Đa-La.
 
Viễn kiếp đồng trú hữu trùng phùng: Vào một kiếp xa xưa chúng ta đã từng ở chung, đồng tham thiền với nhau, cùng nhau nghiên cứu Phật pháp, đến nay chúng ta lại gặp nhau ở đây.
 
Sư diễn Ma ha thâm Bát nhã: Hồi đó Tổ bất-Như-Mật-Đa diễn giảng cho đại chúng kinh “Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
 
Dư chuyển Diệu Pháp Liên Hoa kinh: Con thì thuyết giảng tu-đa-la thâm sâu – tôn giả Bát-Nhã-Đa-La kể lại với Tổ Bất-Như-Mật-Đa.
          Tu-đa-la thâm sâu tức là chỉ các kinh điển đại thừa và, trong số các kinh đại thừa thì kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” là tột cùng, là vua của các kinh; tôn giả nói trong thời gian này Ngài chuyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có nghĩa là niệm Diệu Pháp Liên Hoa, bái lạy Diệu Pháp Liên Hoa, lễ bái, cúng dàng, diễn thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
 
Vương thỉnh ứng cúng trai thứ tất: Một hôm quốc vương xứ Nam Ấn thỉnh tôn giả Bát-Nhã-Đa-La về cung cúng dường trai tăng.
 
Tăng vị hồi hướng chúc khang bình: Khi đã thọ trai xong, Ngài hồi hướng,  đại khái như niệm chú “cung dưỡng” và tất cả mọi người đều niệm “hồi hướng chú, cung dưỡng chú”, tỷ như mấy câu:
 
Nhược vị lạc cố thí
Hậu tất đắc an lạc
Phạn thực dĩ ngật
Đương nguyện chúng sanh
Sở tác dĩ biện
Cụ chư Phật pháp
 
Cùng là nguyện cầu cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình, như trên câu kệ nói “chúc khang bình”.
 
Hô hấp bất cư ấm xứ giới: Nhà vua thấy riêng một mình tôn giả là không tụng niệm, không mở miệng nói năng gì, bèn hỏi: “Mọi người đều tụng kinh, riêng thầy không tụng, vậy thầy làm gì? Hỏi như vậy thì nhà vua này có thể kể như là quá thực thà, chẳng biết khách sáo, giống như mấy người Mỹ bên này vậy! Chân tâm chính là đạo tràng! Đáp lại nhà vua, tôn giả nói rằng sự hít thở của Ngài không giống như mọi người khác. Ngài có thể chẳng thở ra cũng chẳng thở vào, vượt ngoài ba cõi, không nằm trong sự cấu tạo của ngũ hành! Có thể hít thở, mà cũng có thể không hít thở. Bởi vậy khi thở ra thì không tùy theo các duyên, khi hít vào không ở trong ấm, xứ và giới. Ấm là nói về ngũ ấm; xứ thì chỉ thập nhị xứ, gồm có 6 căn và 6 trần; giới thì có tất cả là 18 giới, gồm 6 căn, 6 trần và 6 thức.
 
Giải thoát tự tại mãn thái hư: Vì lý do Ngài không dính vào một chỗ nào trong thập nhị xứ nên mới gọi là giải thoát, là tự tại, pháp tánh thì bao trùm khắp hư không. Chẳng đến chẳng đi, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, quét sạch mọi pháp, lìa hết mọi tướng, chẳng còn chấp vào một tướng gì nữa!
 
              Thượng nhân Tuyên Hóa thuyết giảng ngày 13 tháng 9 năm 1981
 
 
Chú 1. Bản cổ ghi “Tổ Bà-Tư” là không đúng. Theo sự tra cứu qua các sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt LụcTruyền Pháp Chánh Tông Ký thì các tài liệu đều ghi rằng Tổ thứ 26 là tôn giả Bất-Như-Mật-Đa.
 
Chú 2. Về câu chuyện gặp gỡ và truyền pháp giữa hai vị Tổ sư đời thứ 26 và 27, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi rõ như sau : . . .Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa nói với vua: “Trong nước có thánh nhân, người này sẽ kế thừa tôi.” Số là khi đó có một đồng tử, con dòng Bà-la-môn, 20 tuổi, cha mẹ mất sớm, không ai biết tên là gì, tự xưng tên là Anh-Lạc, nên mọi người quen gọi là “đồng tử Anh-Lạc”, thường thấy đi hành khất qua xóm làng, tỷ như kiểu Thường bất Khinh vậy. Có người hỏi: “Sao đi nhanh vậy?” thì đồng tử trả lời: “Sao các người đi chậm vậy?” Có người hỏi: “Ngươi họ gì?” thì đồng tử trả lời: “Tôi cùng một họ với các người.” Cứ như vậy chẳng ai hiểu duyên cớ gì.
           Về sau, nhân dịp tôn giả ngồi chung xe với vua đi ra ngoài thành, đồng tử Anh Lạc đi tới lễ lạy trước tôn giả. Ngài bèn hỏi: “Ngươi nhớ chuyện xưa chăng?” Anh Lạc đáp: “Con nhớ vào thưở xa xưa con cùng tôn giả ở chung một nơi. Ngài thì diễn giảng Ma-Ha Bát Nhã, con thì chuyển kinh Tu Đa La thâm sâu. Sự tình ngày hôm nay chính là hợp với nhân duyên xưa.” Tôn giả lại nói với vua: “Đồng tử này không phải ai khác mà là hóa thân của bồ tát Đại thế Chí. Sau vị thánh này sẽ có hai vị nữa, một vị giáo hóa vùng Nam Ấn Độ, một vị thì có duyên với xứ “Chấn Đán” (tức Trung Hoa), trong vòng 4 hay 5 năm sau thì lại sẽ trở về đây. Cũng do sự tích về nhân duyên này mà có tên “Bát-Nhã-Đa-La” và kệ truyền pháp như sau:
                                                           
Chân tánh tâm địa tạng
Vô đầu diệc vô vĩ
Ứng duyên nhi hóa vật
Phương tiện hô vi trí[3]
 
            Dịch:
 
Chân tánh là tạng tâm
Không đầu cũng không đuôi
Theo duyên mà hóa vật
Phương tiện gọi là trí
 

 

[1]遠劫同居 當面作竊 是勢至來 彼此饒舌
肘後懸符 通明廓徹 轉如是經 陽春白雪
[2]有何因緣今相遇 遠劫同住又重逢
師演摩訶深般若 余轉妙法蓮華經
王請應供齋次畢 僧為迴向祝康平
呼吸不居陰處界 解脫自在滿太虛
 
[3]真性心地藏 無頭亦無尾
  應緣而化物 方便呼為智

Tổ thứ 26: Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa

Phật Tổ Đạo Ảnh
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật 



Tổ thứ 26: Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa (Punyamitra)
 
 
Tôn giả, nam Ấn-độ Thiên Đức vương chi thứ tử. Đầu Bà-Xá Tổ xuất gia. Tổ vấn viết: “Nhữ dục xuất gia đương vi hà sự?” Viết: “Ngã nhược xuất gia, bất vi tục sự.” Tổ viết: “Đương vi hà sự?” Viết: “Đương vi Phật sự.” Tổ phó dĩ Đại Pháp. Du hóa chí đông Ấn Độ, bỉ vương danh Kiên Cố, phụng ngoại đạo sư trường trảo Phạm Chí, tức dĩ ảo pháp hóa đại sơn ư tôn giả đỉnh thượng. Tôn giả chỉ chi, hốt tại bỉ chúng đỉnh thượng. Bỉ chúng bố cụ, đầu Tổ. Tổ tái chỉ chi, hóa sơn tùy diệt. Nãi vị vương diễn pháp, tỉ thú chân thừa. Hậu đắc Bát-Nhã-Đa-La, tức từ vương viết: “Ngô hóa duyên dĩ chung, đương quy tịch diệt.” Tức hoàn bản tọa, già phu nhi thệ.
 
Tôn giả là người xứ nam Ấn-Độ và là con thứ của vua Thiên Đức. Ngài xuất gia theo Tổ Bà-Xá. Tổ hỏi: “Ngươi muốn xuất gia để làm gì? Đáp: “Nếu xuất gia con sẽ không làm việc đời.” Tổ nói: “Ngươi làm việc gì?” Đáp: “Con làm Phật sự.” Tổ truyền đại pháp cho tôn giả. Tôn giả đi du hóa miền đông Ấn-Độ, gặp lúc vua nước ấy tên là Kiên Cố tôn thờ vị thầy của ngoại đạo Phạm Chí và họ dùng ảo thuật biến hóa một quả núi trên đỉnh đầu của tôn giả. Tôn giả lấy tay chỉ thì quả núi hốt nhiên bay qua trên đầu của các chúng ngoại đạo. Số người này hoảng sợ, xin quy phục Tổ. Tổ lại lấy tay chỉ, quả núi liền tan mất. Tổ giảng giải pháp cho vua khiến vua hướng về  đại thừa. Về sau, gặp Bát-Nhã-Đa-La, Tổ bèn từ giã vua: “Nay, việc hóa duyên của tôi đã hết, tôi về nơi tịch diệt.” Kế đó trở về chỗ, ngồi kiết già mà thị tịch.
 
Tán viết:
Trí huệ túc bồi
Sư kỳ nãi thánh
Hàng bỉ quần ma
Tà bất thắng chánh
Thụy triệu hữu trưng
Vương giả tín kính
Bất động nguy nguy
Đạo sơn vạn nhận[1]
 
 
Dịch:
Trí huệ kiếp xưa
Vị thầy bậc thánh
Hàng phục bầy ma
Tà chẳng thắng chánh
Điềm lành chứng minh
Nhà vua tin kính
                                         Lồng lộng lặng lẽ
Núi đạo cao ngất.
 
      Hoặc thuyết kệ viết:
 
Xuất gia nhữ dục tác hà sự
Bất vi tục vụ á dương tăng
Chấn hưng Phật giáo hoằng chánh pháp
Tạo tựu lương tài tục truyền đăng
Ảo thuật thành sơn chung tự diệt
Định lực độ hải thủy kiến chân
Trường trảo hàng phục quốc vương tín
Hóa duyên dĩ tất ngô đương hành[2]
 
        Dịch:
 
                               Ngươi muốn xuất gia tính chuyện gì
Việc đời lìa bỏ kiếp ngu ngơ
Chấn hưng Phật giáo hoằng dương đạo
Nối tiếp truyền đăng tạo pháp tài
Ảo thuật núi kia đâu mất dạng
                             Định sâu độ khắp rõ mười phân
                             Móng dài[3] hàng phục vua tin kính
                             Duyên hóa vừa xong đã giã từ.  
 
Giảng :
 
 Tôn giả, nam Ấn-độ Thiên Đức vương chi thứ tử: Vị Tổ sư đời thứ 26 tức tôn giả Bất-Như-Mật-Đa là người miền nam xứ Ấn Độ và là con thứ 2 của vua Thiên Đức. Đầu Bà-Xá Tổ xuất gia: Ngài theo Tổ Bà-Xá xuất gia.  
 Tổ vấn viết: “Nhữ dục xuất gia đương vi hà sự?”: Tổ thứ 25 Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả rằng: “Ông muốn xuất gia là để làm gì?”  
Viết: “Ngã nhược xuất gia, bất vi tục sự.”: Nếu con xuất gia thì con sẽ lìa bỏ mọi việc thế gian, không làm việc đời nữa.”  
Tổ viết: “Đương vi hà sự?”: Tổ lại hỏi: “ Chuyện thế gian không làm nữa thì ông làm việc gì?”  
Viết: “Đương vi Phật sự.”: Tôn giả đáp: “Việc tôi làm chỉ là Phật sự.”
         Quý vị nghĩ coi! Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa nói rằng sau khi xuất gia Ngài sẽ không làm việc thế tục, như vậy có nghĩa là mọi vấn đề về tình cảm sẽ gác ra ngoài, hết tình hết ái, các thứ ham muốn hay yêu thương đều dẹp bỏ. Ngài thoát ly hẳn đời trần tục, xa lìa mọi sự tình của người thế gian, những điều mong cầu của người đời. Điều Ngài làm toàn là những việc xuất thế gian và tất cả dành cho Phật sự.
        Phật sự là những việc gì đây? Tỷ như ở đây chúng ta phiên dịch kinh điển, mang những văn tự khác nhau phiên dịch ra thành văn tự giống nhau, rồi từ văn tự giống nhau diễn ra các văn tự khác nhau, vậy là làm Phật sự. Tỷ như chúng ta nói pháp giảng kinh, niệm Phật, quá đường thọ trai, cho đến việc tọa thiền thường ngày, dụng công tu tập, những thứ đó đều gọi là Phật sự cả. Chúng ta dẹp bỏ các thứ vọng niệm, gom tâm lại một chỗ, khiến trong tâm được thanh tịnh tức là làm hết mình cho Phật sự. Như quý vị giữ trong tâm không có tạp niệm, không có dục niệm, thì như vậy chính là làm Phật sự rất lớn lao đó. Bởi vậy mới có câu:
 
Tâm dừng niệm tuyệt chân phú quý
Tư dục đoạn tận chân phúc điền
 
         Có nghĩa là khi dừng tâm lại, bặt các niệm thì đó là phú quý chân thật; đoạn trừ được tham dục mới là ruộng phước thực sự.
        Hết lòng làm việc cho Phật sự và không làm việc đời là lời nói của tôn giả Bất-Như-Mật-đa. Tuy thời của Ngài cách xa chúng ta hàng ngàn năm nhưng những lời nói đó đến nay vẫn còn vẳng bên tai chúng ta, những gì Ngài đã làm thì nay vẫn đương làm, chí nguyện của Ngài ra sao thì nay vẫn còn tồn tại. Chúng ta là người xuất gia phải lấy câu “kiến hiền tư tề” làm châm ngôn, nghĩa là trông gương các vị thánh hiền mà nối gót theo cho bằng. Từ đó chúng ta phải noi theo hành động của các vị Tổ sư, tư tưởng của các Ngài, đạo đức của các Ngài, chí nguyện của các Ngài mà làm giống như vậy. Có câu nói: “Thuấn hà nhân dã? Dư hà nhân dã? Hữu vi giả diệc nhược thị.”[4] Chúng ta có thể đổi câu này thành: “Tổ sư hà nhân dã? Ngã hà nhân dã?”Chúng ta nên ráng sức tu hành, ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được khai ngộ, cho nên phải “kiến hiền tư tề, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã”, theo gương thánh hiền mà bắt chước, thấy kẻ chẳng hiền thì phải tự xét mình lại. Khi gặp hạng người xấu, chúng ta quay về mình quán chiếu, suy xét: “A! Ta không nên bắt chước họ, phải sửa đổi mình hướng theo cái tốt.” Chúng ta đã xuất gia chẳng phải chỉ vì cái danh xuất gia - trong đầu không nên có cái danh đó - mà phải là người xuất gia thật sự, với tất cả sự chân thành của mình, điều này là quan yếu nhất.
         Tổ Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa lý do xuất gia chính là muốn nhắc lại tiền duyên xưa của tôn giả để Ngài nhớ lại căn lành trước đây là không làm việc đời mà chỉ dành hết tất cả cho Phật sự.  
Tổ phó dĩ đại pháp: Sau khi nghe tôn giả trả lời, Tổ bèn truyền lại cho tôn giả pháp lớn tức là Diệu pháp Tâm ấn, pháp liễu sanh thoát tử.  
Du hóa chí đông Ấn Độ: Tôn giả đi giáo hóa tới miền đông Ấn Độ. Bỉ vương danh Kiên Cố, phụng ngoại đạo sư trường trảo Phạm Chí: Khi ấy vua ở nơi này, tên là Kiên Cố đương tôn thờ một vị thầy ngoại đạo làm sư phụ. Phạm Chí chỉ người tu hạnh thanh tịnh, còn trường trảo tức là móng dài, đây là móng tay mọc dài ra mà không cắt, nên những móng tay đó rất là dài. Thầy “Phạm Chí móng tay dài” là nghĩa gì, các vị biết không? Theo lời tôi kể thì đó chẳng qua là một trường hợp lười biếng! Quý vị nghĩ thử coi! Móng tay không chịu cắt thì đâu còn làm lụng cái gì được nữa? Thậm chí ăn cũng phải có người bón cho, bởi vì, nếu không ai bón cho ăn khiến y phải tự xoay sở lấy cho mình, lúc đó các móng tay sẽ hư hoại hết thì sao? Y bảo vệ móng tay chẳng khác gì bảo vệ sinh mạng của y vậy. Đại khái y bảo rằng: “Ấy! Không thể cử động được đâu! Ta là như vậy đó!”. Cũng giống như kiểu Milarepa hay số ngoại đạo phái lõa thể, tu một loại pháp gì đó chuyên để móng tay dài. Nhà vua trông thấy vậy tưởng y là thần thánh, kỳ thực y không có khả năng làm một công việc gì nên lấy cớ tu đạo để hưởng nhàn, an dưỡng cái thân, không làm điều gì lợi ích cho mọi người vì chính cái thân mình cũng không lo trọn.  
Tức dĩ ảo pháp, hóa đại sơn ư tôn giả đỉnh thượng: Vị thầy Phạm Chí này có ảo thuật, biết làm trò biến hóa, một loại ma thông, quỷ thông, chớ không phải là thần thông. Tỷ như Milarepa tự xưng mình là siêu việt, siêu hơn các vị xuất gia, tự cho mình giống như đức Phật vậy! Điều này là một sự ngã mạn lớn, một loại tà kiến, khiến cho nhiều người hiểu sai lạc [6]
Vị Phạm Chí móng tay dài này biết trò ma thuật, ảo thuật. Gọi là ảo vì nó chẳng phải chân thực, một loại pháp hư dối. Khi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa tới, y sợ rằng nhà vua sẽ đổi theo đạo khác, nên làm phép biến hóa ra một trái núi, hiện ngay trên đầu của tôn giả.  
Tôn giả chỉ chi, hốt tại bỉ chúng đỉnh thượng: Tôn giả bèn lấy tay chỉ một cái, tức thì trái núi liền bay qua, áp trên đầu của vị thầy Phạm Chí và đám đệ tử của y. Bỉ chúng bố cụ, đầu Tổ: Đám đệ tử rất sợ hãi, họ bèn quay sang quy phục Tổ. Tổ tái chỉ chi, hóa sơn tùy diệt: Tổ lại lấy tay chỉ vào trái núi, cả tòa núi lớn liền biến mất dạng.  
Nãi vị vương diễn pháp, tỉ thú chân thừa: Lúc đó Tổ Bất-Như-Mật-Đa thuyết pháp cho vua nghe, khiến cho vua được quay về vói pháp Đại thừa chân chánh.  
Hậu đắc Bát-Nhã-Đa-La, tức từ vương viết: Về sau, Tổ truyền pháp tâm ấn cho tôn giả Bát-Nhã-Đa-La rồi nói lời giã biệt với quốc vương như sau: “Ngô hóa duyên dĩ chung, đương quy tịch diệt.”: “Nhân duyên giáo hóa của tôi đã đầy đủ rồi, bây giờ tôi phải đi về cảnh giới tịch diệt.” Tức hoàn bản tọa, già phu nhi thệ: Nói xong, Tổ trở về chỗ của Ngài, ngồi kiết già mà vãng sanh.
 
Tán:  
Trí huệ túc bồi, Sư kỳ nãi thánh: Trí huệ của Ngài là do sự vun trồng từ những kiếp xưa. Thầy của Ngài là một bậc thánh, Ngài cũng là một bậc thánh. Mấy chữ “sư kỳ nãi thánh” có thể giải thích theo hai cách: chữ “sư” có thể cắt nghĩa là thầy của Ngài, nên câu này có thể hiểu là thầy của Ngài là một vị thánh; chữ “sư” cũng có thể chỉ chính Ngài, nên mấy chữ trên nói rằng đích thân Ngài là một vị thánh.  
Hàng bỉ quần ma, Tà bất thắng chánh: Ngài đã hàng phục vị thầy Phạm Chí cùng tất cả số ngoại đạo, điều đó chứng tỏ rõ rệt là tà không thể thắng được chánh.  
Thụy triệu hữu trưng,Vương giả tín kính: Chữ “trưng” nghĩa là chứng minh. Ánh sáng lành đó – thụy triệu – đã chứng minh cho nhà vua trông thấy rõ lẽ “tà chẳng thắng chánh”, nghĩa đại thừa mới là chân thực, từ đó nhà vua mới tin theo Phật giáo.  
Bất động nguy nguy, Đạo sơn vạn nhận: Ngài thì luôn luôn an nhiên, lặng lẽ, bất cứ cảnh ngộ nào cũng không làm Ngài dao động. Đạo đức và giáo pháp của Ngài cao vòi vọi như một tòa núi, không ai phá nổi.  
 
Kệ:  
Xuất gia nhữ dục tác hà sự: Tổ Bà-Xá-Tư-Đa hỏi tôn giả Bất-Như-Mật-Đa: “Người muốn xuất gia để làm gì?”  
Bất vi tục vụ á dương tăng: Tôn giả trả lời: “Xuất gia, thì con sẽ không làm việc gì thuộc về người thế tục, giống loại người ngu ngơ, không biết suy xét phân biệt.  
Chấn hưng Phật giáo hoằng chánh pháp: Tổ Bà-Xá-Tư-Đa lại hỏi: “Vậy người làm việc gì?”Tôn giả đáp: “Con làm Phật sự, bởi vì con phải chấn hưng Phật giáo chân chánh cùng hoằng dương Phật pháp.”  
Tạo tựu lương tài tục truyền đăng: Tôn giả nói Ngài sẽ đào tạo hiền tài của Phật giáo, nối tiếp việc truyền đăng.  
Ảo thuật thành sơn chung tự diệt: Trái núi do trò ảo thuật của ngoại đạo biến hóa ra, quả là đáng sợ. Tuy nhiên, nó cũng tiêu tan mất dạng! Lý do là định lực của tôn giả đã thắng tà thuật, tà không thắng chánh được.  
Định lực độ hải thủy kiến chân: Độ hải nghĩa là cứu độ khỏi sự hiểm nghèo của bể khổ. Tôn giả Bất-Như-Mật-Đa phá trò ảo thuật, do Ngài dùng định lực của Ngài, loại định lực độ hải có năng lực giải trừ mọi hiểm nguy. Điều đó tỏ rõ công phu chân chánh của Ngài.  
Trường trảo hàng phục quốc vương tín: Phạm Chí móng dài đã bị Ngài hàng phục, nhà vua tỏ lòng sùng tín, điều đó cũng là do công phu chân chánh mới có được sự cảm ứng đạo giao đó.  
Hóa duyên dĩ tất ngô đương hành: Nay thì mọi việc làm của ta đã lo xong, không còn gì khác nữa, ta phải đi đây! Đại sự đã chu toàn, việc sanh tử đã giải quyết, đối với ta chẳng có gì còn lại; ta phải giáo hóa những ai thì tất cả đều được giáo hóa rồi, do đó ta cũng thuận theo quan niệm của người đời là ta sẽ về nơi tịch diệt, nơi đạo tràng bất động.  
 

 
Chú: Bài kệ truyền pháp của Tổ thứ 25 phó chúc cho Tổ thứ 26 thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi như sau:
                                Thánh nhân thuyết tri kiến
                                      Đương cảnh vô thị phi
                                      Ngã kim ngộ chân tánh
                                      Vô đạo diệc vô lý[5]
 
        Dịch:
Thánh nhân nói tri kiến
Ngay cảnh chẳng sai đúng
Nay ta ngộ chân tánh
Không đạo cũng không lý


[1] 智慧宿培 師其乃聖 降彼群魔 邪不勝正
瑞兆有徵 王者信敬 不動巍巍 道山萬仞
 
[2]出家汝欲作何事 不為俗務啞羊僧
振興佛教弘正法 造就良才續傳燈
幻術成山終自滅 定力渡海始見
長爪降伏國王信 化緣已畢吾當行
 
[3] Móng dài: nguyên văn là “trường trảo”. Từ ngữ “Trường trảo Phạm Chí” thường dùng để chỉ các vị thầy của ngoại đạo
[4] 舜何人也?予何人也?有為者亦若是: Câu này xin hiểu như sau : Vua Thuấn là người thế nào? Ta là người thế nào? Nếu như ta lập chí cố gắng mà làm thì ta cũng giống như thế, cũng được người trong thiên hạ ái mộ như thế. (Lời của Nhan Hồi, trích trong Mạnh Tử, Đằng Văn Công Chương Cú).
[5]                                          聖人說知見
當境無是非
我今悟真性
無道亦無理