Theo truyền thuyết, thân Phật Nhiên Ðăng cao “80 trượng”, giáo hóa 84.000 vị A-la-hán, Ngài sống 100.000 năm. Tháp đựng xá-lị Phật Nhiên Ðăng cao 36 do-tuần (s: yojana » 15-20km).
Cứu Một Người Còn Hơn Xây Chín Bậc Phù Đồ
Saturday, April 21, 2012
Nhiên Đăng Cổ Phật
Theo truyền thuyết, thân Phật Nhiên Ðăng cao “80 trượng”, giáo hóa 84.000 vị A-la-hán, Ngài sống 100.000 năm. Tháp đựng xá-lị Phật Nhiên Ðăng cao 36 do-tuần (s: yojana » 15-20km).
Sự tích Phật Dược Sư
Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích-ca Mâu-ni và A-di-đà, trong đó Ngài đứng bên trái còn Phật A-di-đà đứng bên mặt đức Thích-ca. Trong kinh Dược Sư – hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng – người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.
Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi. Các lời nguyện của Phật Dược Sư:
1. Phát hào quang chiếu sáng mọi chúng sinh;
2. Cho chúng sinh biết đến Nhất thiết trí của mình;
3. Cho chúng sinh thực hiện được ước nguyện;
4. Hướng dẫn chúng sinh đi trên đường Ðại thừa;
5. Giúp chúng sinh giữ giới hạnh;
6. Giúp chúng sinh chữa lành các thứ bệnh do sáu giác quan sinh ra;
7. Chữa bệnh thuộc về thân tâm cho mọi chúng sinh;
8. Cho phụ nữ tái sinh trở thành nam giới;
9. Tránh cho chúng sinh khỏi rơi vào tà kiến và giúp trở về chính đạo;
10. Tránh cho chúng sinh khỏi tái sinh trong thời mạt kiếp;
11. Ðem thức ăn cho người đói khát;
12. Ðem áo quần cho người rét mướt.
Sự tích Phật Bất Động
Vị Phật giáo hóa ở Ðiều hỉ quốc (s: abhirati) phương Ðông. Cần hiểu »Ðiều hỉ quốc« không phải là một vị trí địa lí mà là một trạng thái tâm thức. Mỗi cõi được xếp vào một vị Phật với những tính chất nhất định (Tịnh độ).
Cách đây vô lượng kiếp, Bất Ðộng Phật còn là tăng sĩ, từng thệ nguyện với đức Phật giáo chủ Ðiều hỉ quốc sẽ không bao giờ khinh khi hay giận giữ với bất cứ chúng sinh nào. Thực hiện lời thề đó, Ngài không lay chuyển trước trở lực nào, trở thành »bất động« danh hiệu của Ngài và thành Phật của Ðiều hỉ tịnh độ. Chúng sinh nào tái sinh vào quốc độ của Phật Bất Ðộng sẽ không bao giờ rơi trở lại cõi thấp kém hơn, và muốn như thế, hành giả cũng phải thệ nguyện như Ngài (Phật gia).
Bồ tát Kim Cương Tát Đóa
Tín ngưỡng Bồ tát Địa Tạng tại một số nước Đông Á
Theo truyền thống Đại thừa, có vô lượng Bồ-tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian để cứu giúp chúng sanh đang bị đọa đày trong cảnh khổ đau. Và Bồ-tát Địa Tạng là một trong những vị Đại Bồ-tát như vậy, bậc rất được kính ngưỡng trong truyền thống Phật giáo Bắc tông ngày nay.
Danh hiệu của Ngài nguyên ngữ tiếng Phạn là Bodhisattva Ksitigarbha, phiên âm tiếng Hán là Địa Tạng Bồ-tát. Theo kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, trong vô lượng kiếp về quá khứ, Bồ-tát Địa Tạng đã phát đại thệ nguyện vào chốn địa ngục để cứu độ chúng sanh, nguyện rằng đến khi nào không còn chúng sanh trong địa ngục thì Ngài mới thành tựu vô thượng Bồ-đề. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã khen ngợi hạnh nguyện cao đẹp này và dạy rằng, nếu ai biên chép kinh này, tôn tạo tranh tượng, lễ bái cúng dường Bồ-tát Địa Tạng thì được công đức rất lớn; nhờ công đức này, thân bằng quyến thuộc, kẻ còn người mất, đều được an vui.
Và từ đó, tín ngưỡng tôn tạo tranh tượng và lễ bái cúng dường Bồ-tát Địa Tạng đã hiện diện tại Ấn Độ, Trung Á, Tây Tạng, ảnh hưởng rộng khắp Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, và trở thành tín ngưỡng chung của người dân Nhật Bản.
Tại Ấn Độ, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng xuất hiện khoảng đầu thế kỷ thứ VI TL, đầu tiên tại Uttar Pradesh, dần dần được khắc họa vào tranh tượng Mạn-đà-la theo truyền thống Phật giáo Mật tông. Trong tranh tượng Man-đà-la của tám vị Đại Bồ-tát tìm thấy tại Kalinga (nay gọi là Orissa), phía đông Ấn Độ, Bồ-tát Địa Tạng được khắc họa ở vị trí hướng Đông cùng với Bồ-tát Di Lặc thân cận một bên đức Bất Động Như Lai. Bồ-tát Địa Tạng cũng được kính ngưỡng trong cộng đồng Tăng-già và cư sĩ tại phía Nam Ấn Độ từ thế kỷ thứ VIII, được thể hiện qua tranh tượng tại các quần thể hang động Phật giáo Ajanta và Ellora.
Bằng con đường Tơ lụa, Phật giáo Đại thừa Ấn Độ đã truyền đến các nước Trung Á. Tại đây, Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng vào cộng đồng xã hội, và trong nhiều thế kỷ, tư tưởng Phật giáo đã đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tâm linh của người dân mà ngày nay phần lớn là tín đồ Hồi giáo này. Những tranh tượng còn lại, cho thấy vào thế kỷ thứ VIII, Bồ-tát Địa Tạng được mô tả với hình dáng Tăng sĩ Phật giáo. Một số tác phẩm văn học Phật giáo bằng tiếng Khotan tìm thấy, có niên đại vào thể kỷ thứ VIII, cũng đã tôn xưng danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng. Điều ấy cho biết, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã phổ biến tại các nước Trung Á trễ nhất là vào thế kỷ thứ VIII TL. Và người ta tin rằng, Ngài thường hiện thân cứu giúp những thương nhân hay lữ khách khi gặp hoạn nạn trên lộ trình xuyên qua con đường Tơ Lụa đầy hiểm nguy và gian khổ này. Ngày nay, Phật giáo tại các nước Trung Á đã suy tàn, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng cũng không còn nữa, chỉ còn lại những di tích cổ xưa luôn có thể bị đập phá bởi những người Hồi giáo cực đoan.
Phật giáo truyền vào Trung Quốc dưới triều đại nhà Hán, khoảng nửa cuối thế kỷ thứ I TL. Sau đó, nhiều du tăng Ấn Độ và Trung Á lần lượt đến truyền giáo tại Trung Quốc. Từ thời Tam Quốc (nửa cuối thể kỷ thứ III TL) đến hết thời kỳ Nam Bắc Triều (cuối thế kỷ thứ VI), đất nước Trung Quốc luôn bị chia cắt và chiến tranh, dân chúng thường xuyên sống trong trong tình trạng hoảng loạn và chịu cảnh áp bức. Trong những hoàn cảnh như vậy, người dân rất cần đến sự bảo hộ và cứu giúp của những vị Bồ-tát như Bồ-tát Địa Tạng. Tùy thuận ước vọng của dân chúng, vào khoảng đầu thế kỷ thứ V, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã được hiện diện tại Trung Quốc. Và đến khoảng đầu thế kỷ thứ VII, tín ngưỡng này đã phổ biến rộng khắp trong quần chúng Phật tử. Vâng theo lời dạy của đức Phật trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện về công đức tôn tạo hình tượng và lễ bái cúng dường Bồ-tát Địa Tạng, Phật tử và những người tín tâm đã khắc tạo hàng ngàn bức họa và pho tượng trên những vách đá tại nhiều thánh tích Phật giáo, mà nổi tiếng nhất là quần thể hang động Long Môn và Đôn Hoàng. Bồ-tát Địa Tạng thường được khắc họa trong hình dáng Tăng sĩ Phật giáo Bắc tông, mình khoác cà-sa, tay cầm minh châu và thiền trượng.
Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền nhau rằng, Bồ-tát Địa Tạng hóa hiện thành thái tử Triều Tiên Kim Kiều Giác, xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu Hoa, hóa hiện thần lực nhiếp độ quần sanh. Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của Bồ-tát Địa Tạng. Từ khi Bồ-tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm tin về sự cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương xa hành hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông. Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của Tăng Ni cũng như Phật tử, hàng trăm tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ này. Cửu Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm từ cuối nhà Thanh trở về sau… Ngày nay, dù không còn hưng thịnh như xưa, nhưng Cửu Hoa Sơn vẫn là một trong bốn đỉnh núi linh thiêng của Phật tử Trung Hoa, và là điểm đến của nhiều khách du lịch, cả người Trung Quốc lẫn người nước ngoài.
Từ Trung Quốc, Phật giáo truyền đến Triều Tiên. Qua ngõ triều tiên, Phật giáo truyền vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ VI TL. Trước khi Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người dân nơi đây phần lớn tin theo Thần đạo. Họ tôn thờ nhiều vị thần linh. Khi Phật giáo phát triển, dân chúng Nhật Bản đã lưu truyền nhiều câu chuyện về Bồ-tát Địa Tạng như là hiện thân của vị Bồ-tát chăm lo và cứu giúp những người bất hạnh và khổ đau. Họ tin rằng, Ngài luôn bảo hộ những lữ khách đi đường, phụ nữ có thai, người lính cứu hỏa… đặc biệt trẻ em bất hạnh.
Ngài luôn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, bạo hành trong gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường đến bên bờ sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là linh hồn phải đi qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội hình, an ủi và che chở các em. Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt những viên đá cuội xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất khổ sở vì nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ-tát Địa Tạng thường đến bên các em vỗ về, an ủi và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức, và đưa các em qua sông Nại Hà. Nhiều người khác lại tin rằng, các em có tội bất hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn, nên các em bị hình phạt bên bờ Nại Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng thường hiện thân cứu giúp các em, đưa các em qua dòng sông Nại Hà.
Vì tôn thờ Bồ-tát Địa Tạng là vị Bồ-tát bảo vệ trẻ em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài thường biểu hiện giống và liên quan đến trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng một em bé, dưới chân lại có vài ba em bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được tôn thờ bên những dòng sông, con suối. Hằng năm, người dân Nhật Bản thường tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn của Ngài dành cho trẻ thơ vào ngày 24 tháng 7 AL. Ngày nay, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng chung của Phật giáo và dân gian.
Phật giáo Tây Tạng theo truyền thống Mật thừa, mà truyền thống này, ngay tại Ấn Độ, đã tôn xưng và lễ bái Bồ-tát Địa Tạng như là một trong tám vị Đại Bồ-tát thân cận với năm vị Đại trí Như Lai biểu hiện qua dạng Mạn-đà-la. Trong kết cấu Mạn-đà-la của Tám vị Đại Bồ-tát, tuy có vài thay đổi vị trí tọa vị của ngũ phương Phật và các vị Bồ-tát, nhưng trong Mạn-đà-la được biết nhiều, thường mô tả Bồ-tát Địa Tạng thân cận với đức Bất Động Như Lai (A-súc-bệ Phật). Tổng thể Mạn-đà-la này, về hình thức, thường mô tả đức Đại Nhật Như Lai (Tỳ-lô-giá-na Phật) tọa vị trung ương. Trong khi bốn Đại trí Như Lai là Bất Động Như Lai, Bảo Sanh Như Lai, A-di-đà Như Lai, Bất Không Thành Tựu Như Lai tọa vị bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc; và có tám vị đại Bồ-tát: Địa Tạng, Di-lặc, Kim Cang Thủ, Hư Không Tạng, Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Trừ Cái Chướng và Phổ Hiền thân cận sát bên. Theo truyền thống Mật tông, Mạn-đà-la được thể hiện qua tranh tượng biểu trưng cho vũ trụ và năng lực của vũ trụ. Dạng hình của nó thường là hình tròn hoặc hình vuông. Ngày nay, Mạn-đà-la là đối tượng thiền quán và lễ bái phổ biến trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng và các nước theo Mật tông.
Qua nhiều thế kỷ, những người con Phật đã tôn tạo tranh tượng Bồ-tát Địa Tạng trong nhiều hình dáng khác nhau theo tín ngưỡng, văn hóa của mỗi quốc gia. Nhưng tất cả Phật tử đều có chung niềm tin sâu sắc về hạnh nguyện độ sanh của Ngài. Hạnh nguyện cứu giúp chúng sanh đang chịu nhiều khổ đau của Bồ-tát Địa Tạng cần được tiếp nối và phát huy sâu rộng trong hành động và việc làm của người con Phật, hầu mong góp phần mang đến an vui hơn và hòa bình hơn cho nhân loại.
Thông Điệp Của Bồ Tát Địa Tạng Qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều Kinh điển Đại thừa vì công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục
Địa ngục là gì? Trả lời Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rõ: “Đó là do chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế” và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng được giải thích, “Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra.”
…”Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo.”
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là một bộ Kinh nói về công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng thường được các Chùa chiền tự viện tại các quốc gia theo khuynh hướng Đại Thừa khai tụng trong suốt tháng bảy, đặc biệt là vào dịp lễ Vu Lan, tức là mùa báo hiếu cha mẹ, tổ tiên theo truyền thống của người con Phật.
Bộ Kinh này đã được Hoà Thượng Trí Tịnh dịch từ Hán Tạng ra tiếng Việt.
Lý Do Ra Đời Của Kinh Địa Tạng.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan: “Ta nghe như vầy”, có nghĩa là bộ Kinh này đã được Ngài A Nan ghi nhớ lại lời Phật giảng dạy và sau đó truyền tụng cho đại chúng. Ngay điểm mở đầu này có thể tạo nên một số nghi hoặc đối với đại chúng nhất là những người có một số hiểu biết về lịch sử Phật giáo, vì ai cũng biết rằng Ngài A Nan chỉ đắc quả A La Hán và đạt được thần thông sau khi Phật nhập diệt, chỉ vài giờ trước khi Ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập Đại Hội Tăng già kết tập Kinh điển lần thứ nhất. Như vậy, với tư cách là một phàm Tăng, người ta tự hỏi, làm sao ngài A Nan có thể đi cùng với Phật lên cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết Pháp? Tuy nhiên, để giải tỏa mối nghi ngờ này, ta nên hiểu rằng, trước khi nhận làm thị giả chính thức cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đã ra 8 điều kiện và được Phật chấp nhận, trong đó điều kiện thứ tám nêu rõ: “Nếu Đức Thế Tôn thuyết Pháp trong lúc A Nan vắng mặt, thì ông xin Đức Bổn Sư lặp lại bài Pháp ấy cho ông nghe.”
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi, tức là từng trời thứ hai trong sáu từng trời của cõi Dục giới nơi mà Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sanh thành, Đức Phật đã diễn nói Kinh Địa Tạng tại Pháp hội ở cung trời này. Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu.
Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền… cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ “bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ”, vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ “gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội).
Như vậy nội dung chính yếu của Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, nói lên những bổn phận, nghĩa vụ của người sống đối với người đã quá vãng, cũng như nêu bật những tội phúc quả báo ở kiếp sống bên kia để người Phật tử nương theo Kinh này cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ Tát Địa Tạng để tu tập, hầu độ thoát cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sanh đã quá vãng khỏi rơi vào con đường ác.
Hành Trạng Và Đại Nguyện của Bồ Tát Địa Tạng
Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật như thế nào mà lại được Đức Phật giao phó một trọng trách lớn lao và khó khăn như thế?
Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều Kinh điển Đại thừa vì công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: “Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn.”
Bồ Tát Địa Tạng đã đạt đến quả vị này là do một phát tâm từ bi dõng mãnh muốn cứu vớt tất cả những khổ đau của chúng sanh, đặc biệt là những chúng sanh đang chịu khổ nạn trong địa ngục, được huân tập qua một quá trình tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp, trong đó một vài kiếp nổi bật đã được Đức Phật nhắc lại trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện như sau:
Vị Trưởng giả dưới thời Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai: Trong kiếp này Ngài là một vị Trưởng giả, đã lập nguyện độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ mới chứng thành Phật đạo.
Hiếu nữ Bà La Môn dưới thời Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật: Trong kiếp này Ngài là một thiếu nữ Bà La Môn hết lòng sùng kính Tam Bảo nhưng bà mẹ lại là một người mê tín tà đạo, khinh chê Tam Bảo. Vì ác nghiệp này mà sau khi chết bà đã bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy không biết mẹ mình thác sanh về nơi nào nhưng Thánh nữ biết rằng với những tội lỗi mà bà đã gây ra, chắc chắn sẽ bị đọa vào con đường ác. Là một người con hiếu thảo, đau lòng vì thương nhớ mẹ, Thánh nữ đã tu tạo phước lành và cầu khẩn oai lực của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật giúp đỡ. Nhờ đó mà thân mẫu của bà chẳng bao lâu sau đã được vãng sanh lên cõi trời. Từ đây Thánh nữ lập nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”
Vị tiểu vương dưới thời Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai: Trong kiếp này Ngài là quốc vương của một nước nhỏ, thương yêu dân như con, luôn thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên dân chúng của vương quốc này tánh tình rất ngang ngược, hung ác. Do đó Ngài đã phát nguyện rằng: “Nếu chưa độ hết những chúng sanh tội khổ đều đặng an vui chứng quả Bồ đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật.”
Hiếu nữ Quang Mục dưới thời Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai: Cũng như câu chuyện của Thánh nữ Bà La Môn, Quang Mục là một thiếu nữ rất hiếu thảo đối với mẹ. Sau khi mẹ mất, nàng băn khoăn không biết mẹ mình nay đã thác sanh về đâu. Nhờ lòng hiếu thảo và công đức cúng dường một vị La Hán đầy phước đức, Quang Mục biết được mẹ đang chịu khổ nạn tại địa ngục do hai tội ác giết hại sanh vật và chê bai mắng nhiếc người khác gây ra lúc còn tại thế. Do phước lực của nàng và oai lực của Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, bà mẹ sau đó đã phải trở lại đầu thai vào làm con của người đầy tớ trong nhà Quang Mục chịu kiếp hạ tiện cho đến năm 13 tuổi mới được vãng sanh về cõi trời. Nàng Quang Mục vì thương mẹ mà đã phát nguyện rộng lớn như sau:
“Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh, và ngạ quỉ, v.v…
Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới trở thành bậc Chánh Giác.”
Đức Thế Tôn đã vì mẹ mà tìm đến cung trời Đao Lợi. Tôn giả Xá Lợi Phất trước khi biết mình sắp nhập Niết Bàn đã quay về mái nhà xưa để độ thoát cho mẹ già. Trong những câu chuyện về tiền kiếp của Bồ Tát Địa Tạng được Đức Phật nhắc lại ở trên, hai hình ảnh nổi bật nhất vẫn là hai thiếu nữ hiếu thảo hết lòng cứu mẹ. Chữ Hiếu như thế, rất quan trọng trong đạo Phật. Biết thương yêu mẹ mới biết thương yêu chúng sanh. Hiểu được những nỗi khổ mà mẹ đang chịu đựng mới có thể hiểu được những nỗi khổ của chúng sanh. Từ đó mới phát đại nguyện cứu vớt chúng sanh. Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng khi đã chia xẻ kiếp người, cũng chia xớt với chúng ta những tình cảm như thế, cho nên chúng ta, những người con Phật, những hiếu tử, có ai nghĩ về mẹ mà không nước mắt rưng rưng? Nhưng làm thế nào để giúp mẹ, để cứu vớt những người thân trong lúc lâm chung hay đã qua đời? Kinh Địa Tạng cùng với công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng sẽ giúp ta thực hiện được điều đó.
Công Năng, Oai Lực của Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
Công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng bao trùm khắp ba cõi Trời, Người và cõi âm. Nói theo danh từ nhà Phật, oai lực đó là không thể nghĩ bàn. Riêng trong cõi thế gian này, Đức Thế Tôn qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đã cho chúng ta biết rằng bất cứ chúng sanh nào hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát rồi chí tâm quy y hoặc cúng dường, chiêm ngưỡng, tô vẽ hình tượng, đảnh lễ Bồ Tát, chắc chắn sẽ đạt được những lợi ích lớn lao sau đây:
1. Lợi ích trong cuộc sống hiện tại:
Những nguyện lớn mau chóng thành tựu: Những ước muốn mong cầu trong đời hiện tại hoặc vị lai, chắc chắn sẽ được thành tựu. Tất cả những ai phát nguyện lớn lao, muốn cứu độ chúng sanh, muốn đạt đạo quả Bồ đề đều được oai lực của Bồ Tát trợ giúp để đạt thành ý nguyện.
Được trí huệ lớn: Đối với những người kém trí nhớ, nghe rồi quên, Kinh điển đọc tụng bao nhiêu lần cũng không nhớ nỗi, Phật dạy nên dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm rồi chí tâm cung kính quay mặt về phương Nam thỉnh nước này để uống, sau đó phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi… giữ gìn 5 giới trong vòng 7 hoặc 21 ngày sẽ thấy hiệu nghiệm.
Tai Nạn Tiêu Trừ: Tất cả những ai luôn bị tai vạ theo đuổi, thân luôn mang tật bệnh, gia đạo không an, người thân ly tán… Nếu chuyên tâm trì tụng danh hiệu của Bồ Tát từ một muôn biến trở lên, tất cả mọi hoạn nạn sẽ dần dần được tiêu trừ.
Thoát khỏi hiểm nguy: Nếu gặp cảnh ngộ phải xông pha vào chốn hiểm nguy, trước khi ra đi chuyên tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát trên một muôn biến, sẽ thoát khỏi khổ nạn hiểm nguy.
Tiêu tội chướng, bệnh tật: Những người bị bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt giường, sống dở chết dở, đó là do nghiệp đạo luận tội chưa đi đến quyết định dứt khoát nên khó chết cũng như khó lành. Trong lúc này người thân nên dùng tài sản, vật qúy của người bệnh tô vẽ hình tượng, cúng dường Bồ Tát rồi báo cho người bệnh biết cũng như trì tụng Kinh này thì người đó vì nghiệp báo mà phải mang lấy bệnh nặng sẽ được hết bệnh, sống lâu, còn như nếu hết nghiệp lúc chết các nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ, không còn bị đọa vào ba đường ác mà sẽ được vãng sanh về cõi Trời.
Được quỉ thần hộ vệ: Những người cung kính đảnh lễ, dùng các hình thức văn mỹ nghệ ca ngợi Bồ Tát Địa Tạng, khuyến khích những người khác cùng làm theo như thế, trong đời này cũng như ở những kiếp sau, họ sẽ được trăm nghìn quỉ thần luôn theo hộ vệ ở bên mình, không còn bị mắc vào những tai họa nữa.
2. Lợi ích cho kiếp sau:
Thoát khỏi nữ thân: Những người nữ nào không muốn mang thân gái ở kiếp sau, hàng ngày thành kính cúng dường, chiêm ngưỡng, đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được như ý nguyện.
Được thân xinh đẹp: Những người nữ hiện tại mang thân hình xấu xí, hay ốm đau bệnh tật trong những kiếp tới sẽ được thân hình xinh đẹp, sinh vào nơi quyền qúy cao sang nếu cung kính đảnh lễ, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng.
Thoát kiếp nô lệ: Những người sinh ra trong kiếp tôi đòi, nô lệ nếu thành tâm trì tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng liên tiếp trong 7 ngày, đủ một muôn biến, kiếp tới sẽ không còn sinh vào nơi hạ tiện nữa.
3. Lợi ích trước phút lâm chung.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể xem là một quyển Kinh gối đầu giường, một cuốn chỉ Nam cho người Phật Tử khi phải đối diện hoàn cảnh một người thân yêu của mình sắp mạng chung. Đây là giây phút hệ trọng nhất của một linh hồn sắp giã từ cõi thế, khi mà tất cả những ham muốn, dục vọng của cả một đời người tích tụ lại thành một năng lực quyết định cho hướng đến của kiếp tương lai. Giống như sĩ tử trong kỳ thi cuối cùng, đây chính là thời điểm thử thách, cân lường thiện nghiệp, ác nghiệp của một đời người trước khi chuyển kiếp. Trong lúc này, Đức Thế Tôn cho ta biết, “thần thức của người chết đang hôn mê, mờ mịt, những quỉ thần, ma đạo đôi lúc còn biến hình ra cha mẹ, những người thân thuộc để lôi kéo họ vào ác đạo, ngay cả đối với những người đã tạo nghiệp lành trong hiện thế.” (Quyển Trung Phẩm Thứ Tám Các Vua Diêm La Khen Ngợi). Cho nên vai trò của người thân lúc này rất quan trọng. Họ phải ở bên cạnh người sắp lâm chung, liên tục trì tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát làm sao cho lọt được vào lỗ tai người chết, như vậy các ma quỉ, ác thần mới lui tan đi chỗ khác.
Đức Phật cũng cho biết những công việc cần làm của thân nhân trong suốt 49 ngày khi linh hồn người chết đang còn vất vưởng, luôn trông ngóng thân quyến cốt nhục tu tạo phước đức làm hành trang, vốn liếng cho họ được nhẹ bước siêu linh. Nỗ lực chính yếu của thân nhân trong thời gian này nên được thể hiện bằng những hành động tích cực như không được giết hại sinh vật, cúng tế thần linh, ma quỉ. Sau 49 ngày thì người chết sẽ tùy theo nghiệp mà nhận lấy quả báo.
Có lẽ quyển “Tạng Thư Sống Chết” của Phật giáo Tây Tạng là quyển sách diễn tả một cách khá rõ ràng về những giai đoạn biến chuyển của thần thức hay thân trung ấm (bardo) con người từ giây phút lâm chung cho đến 49 ngày sau đó, phù hợp với giáo lý mà Đức Phật đã diễn nói trong Kinh Địa Tạng. Trong phần “Các cảnh báo trước nơi tái sanh” tác giả cho biết: “Những người nào phải sanh vào địa ngục sẽ nghe những tiếng như những lời than vãn và sẽ bị bắt buộc phải đi vào một cách không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những ngôi nhà màu đen và trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối om mà người ta sẽ phải đi theo. Bước vào đó là người ta vào địa ngục và sẽ phải đau khổ vì quá nóng, quá lạnh… và sẽ phải chịu đựng lâu dài mới ra khỏi được.” Bởi vậy, đối với người đang hấp hối, sự hiện diện bên cạnh của vị Bổn sư hay của một vị thiện trí thức mà đương thời người hấp hối kính trọng, tin tưởng, đọc tụng cho họ những bổn Kinh hay trì niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, cụ thể là Bồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Địa Tạng hoặc vị Bồ Tát nào mà lúc sinh thời người đó đã chọn thờ kính làm vị Đại sư của mình tương tự như vị Thánh bổn mạng của người Thiên chúa giáo sẽ giúp ích lớn lao cho người chết được mau chóng siêu thăng về cõi Phật.
4. Lợi ích đối với người quá vãng.
Siêu độ vong linh: Tại sao trong giấc ngủ ta nằm mơ thấy ma quỷ, hoặc hình ảnh những người lạ tạo cho ta những ấn tượng lo buồn, hoặc kinh sợ đến đổi phải thở than, khóc lóc hoặc kinh hoảng trong giấc mơ? Đức Phật giải thích cho ta biết đó là do linh hồn những thân quyến của ta đã chết trong kiếp này hay những kiếp trước bị đọa vào ác đạo nên tìm đến ta để mách bảo hy vọng rằng vì tình cốt nhục ta sẽ tìm cách giúp họ thoát ra khỏi con đường ác đạo.
Để giúp cho những vong linh này được siêu độ, Phật dạy ta nên chí tâm đảnh lễ trước hình tượng của chư Phật hay Bồ Tát rồi tự mình đọc tụng Kinh này hoặc nhờ người khác đọc tiếp từ 3 đến 7 biến tức thời những linh hồn thân quyến kia sẽ được giải thoát không còn hiện về trong giấc mơ nữa.
Gặp lại người thân đã quá vãng: Những người nào gặp cảnh cha mẹ mất sớm từ lúc vừa mới sanh ra cho đến trong vòng mười tuổi, hoặc có anh chị em, quyến thuộc đã qua đời, sau này khi họ lớn lên, nhớ tưởng đến những người đã quá vãng? không biết thác sanh về đâu, trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật dạy rằng hễ cứ mỗi lần nghe danh hiệu hoặc chiêm ngưỡng hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì cung kính đảnh lễ một lần trong suốt một ngày đến 7 ngày, những thân quyến quá vãng dù có bị đọa vào ác đạo cũng được siêu thăng lên cõi Trời. Nếu thực hiện công hạnh này đủ 21 ngày và trì tụng một muôn biến danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng sẽ được Ngài hiện về trong giấc mơ mách bảo cho biết nơi thác sanh hoặc Ngài sẽ dẫn đến tận nơi để gặp lại người thân đã qua đời.
Quan Niệm Về Địa Ngục, Tội Phước Nghiệp Báo Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
Có thể xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là quyển Kinh nói rõ nhất về thế giới bên kia tức cõi âm, về địa ngục và những trừng phạt, về tội phước và nghiệp báo.
1. Về địa ngục:
Một vấn nạn mà các triết gia Đông Tây thường nêu ra để tìm lời giải đáp là sau khi chết thần thức, tức linh hồn của con người sẽ đi về đâu? Phải chăng có cõi địa ngục hiện diện ở thế giới bên kia và nếu có qua đó những kẻ gây ác nghiệp sẽ bị trừng phạt như thế nào?
Câu trả lời của Phật giáo rất rõ ràng. Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật đã trả lời dứt khoát cho ta biết là có địa ngục và có sự trừng phạt. Ngài chỉ rõ rằng những người sinh ra trong đời này hoặc mang kiếp nghèo hèn, hoặc gia đình quyến thuộc kình chống nhau, hoặc thân hình xấu xí tàn tật, đui, điếc, câm ngọng, không lưỡi, miệng lở, điên cuồng mất trí, chết yểu,… hoặc sinh làm chim chóc, súc sanh… đều là những chúng sanh đã tạo ác nghiệp từ thân khẩu ý từ những kiếp trước, sau khi chịu qủa báo ở đời này, nếu không tu tập, họ sẽ còn tiếp tục bị “đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi.”
Ta tin lời Phật dạy là có địa ngục, nhưng địa ngục đó như thế nào? Để trả lời những thắc mắc của Thánh mẫu Ma Gia cũng như Bồ Tát Phổ Hiền nêu ra trong Pháp hội, Bồ Tát Địa Tạng đã tóm lược ra cho ta biết tất cả những loại địa ngục, qua đó nạn nhân phải nhận chịu những hình thức trừng phạt hết sức kinh khủng bởi những khí cụ tra tấn ghê rợn trong từng các loại địa ngục, mà trong đó nặng nề nhất là địa ngục Vô Gián. Đọc đến đoạn Kinh này, những người mang tinh thần duy lý có thể sẽ nêu nghi vấn, đặt vấn đề: Con người chỉ cảm nhận được đau đớn khi có xác thân, nhưng sau khi chết rồi, xác thân tan rả thì những hình phạt, tra tấn đâu có tác dụng gì nữa, như vậy phải chăng địa ngục chỉ là sự hù dọa của Tôn giáo đối với những kẻ yếu bóng vía? Ta hãy xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giải thích như thế nào về vấn đề này.
Địa ngục là gì? Trả lời Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rõ: “Đó là do chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế” và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng được giải thích, “Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Năm: Danh Hiệu của Địa Ngục). Thiết tưởng câu trả lời trên đây đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa về địa ngục. Địa ngục hiện hữu là do nghiệp của mỗi chúng sanh mà CẢM ra. Có lẽ phải cần một cuốn sách hay nhiều cuốn sách mới giải thích một cách đầy đủ quan niệm “tùy nghiệp chiêu cảm”, tuy nhiên để có thể hình dung một cách cụ thể thì nếu ta gây nghiệp ác, linh hồn ta sẽ không ngớt bị dày vò, chịu trừng phạt đau đớn sau khi chết giống như ta đang sống trải qua một cơn ác mộng. Trong ác mộng, tuy xác thân ta không bị hành hạ nhưng ta cũng cảm thấy đau đớn, lo lắng, kinh hải, ta cũng rên la than khóc, đổ mồ hôi hột trước những sự khủng khiếp mà ta đang chịu đựng trong giấc mơ; nhưng may mắn cho ta, thần thức ta có chỗ dựa là xác thân, khi sự kinh khủng lên đến cao độ ta tỉnh mộng và tìm được lối thoát. Nhưng sau khi chết, linh hồn ta sẽ không còn chỗ dựa, ta không còn lối thoát nào nữa, cơn ác mộng do đó sẽ kéo dài bất tận do những nghiệp ác gây nên, cho đến khi nào nghiệp ác tự tiêu diệt hoặc ta được những nguyện lực có khả năng cứu rổi ta siêu thoát qua cảnh giới khác.
Hiểu Địa ngục như thế để thấy cảm thương cho cha mẹ, thân quyến của ta, của tất cả chúng sanh vì nghiệp ác phải trả trong địa ngục, để hướng từ bi tâm của ta nguyện cầu cho họ mau chóng siêu thoát hoặc tích cực hơn, trì tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để nhờ oai lực của Bồ Tát cứu vớt họ đến những cảnh giới an lạc.
2. Vấn đề tội phước nghiệp báo:
Khi ta tin có Địa ngục tức là ta tin có vấn đề tội phước nghiệp báo, trong Kinh Địa Tạng bổn nguyện Đức Thế Tôn đã cho ta biết như thế. Mọi việc xảy ra ở trên đời này không có gì là ngẫu nhiên. Ta như thế nào trong kiếp sống hiện tại là kết qủa của nghiệp báo gây ra từ những kiếp trước. Chính nghiệp tốt hay xấu của một người gây ra do thân, khẩu, ý trong đời này lại sẽ là lực quyết định tương lai cho những kiếp tới của cá nhân đó mà không là gì khác. Nghiệp là một nhà phán quan vô tư không sai chạy. Hay ta có thể hình dung ra nghiệp như là một nhà kế toán với phương tiện điện toán hiện đại nhất mà tất cả những hành động tốt xấu của ta xảy ra sẽ được nó lưu trữ vào bộ nhớ (memory) không sót một chi tiết nào. Đến giờ lâm tử, nó mới bắt đầu giở sổ sách ra để tính toán với ta. Từ đó cánh cửa mở ra để ta bước vào cõi Phật, cõi Trời, hoặc đầu thai trở lại làm người, làm súc sanh, hay đi về địa ngục…
Vấn đề luân hồi, tái sinh ngày nay không còn là một vấn đề siêu hình, trừu tượng nữa mà đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thực nghiệm. Hàng ngàn trường hợp đã được kiểm chứng một cách khoa học và được phổ biến qua báo chí, sách vở. Ba nhà tiên phong trong lãnh vực này là Bác sĩ Ian Stevenson nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Louisiana State University, Trưởng khoa Thần Kinh Trường Đại học Y Khoa University of Virginia; Tiến sĩ Bác sĩ Raymond Moody, Jr., thường trú tại bệnh viện Đại học Y Khoa University of Virginia và đặc biệt là Bác sĩ Nha Khoa Bruce Goldberg, hiện có phòng mạch tại Los Angeles, CA đã dùng “Thôi miên trị liệu Pháp” (Hypnotherapy) để cho bệnh nhân nhớ lại tiền kiếp. Trường Đại học Y Khoa Florida, Hoa Kỳ, đã mở hẳn phân khoa “Thôi miên trị liệu Pháp”, dùng phương pháp thôi miên để khám phá những căn bệnh mà họ không thể xác định được căn nguyên. Với phương pháp này họ có khả năng làm cho người bệnh nhớ lại tiền kiếp của mình và nhờ đó mà khỏi bệnh. Bản báo cáo của Trường Đại học này có ghi lại là trường hợp của một bệnh nhân bị chứng đau bụng dưới kinh niên. Cơn đau kinh khủng đến độ bệnh nhân tưởng như cơ thể, đất trời phải nổ tung ra, không thể chịu đựng nỗi. Các phương tiện y khoa đều bó tay không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, cuối cùng phải nhờ đến phương thức trị liệu mới. Nhờ phương thức này mà các bác sĩ chữa trị đã giúp bệnh nhân nhớ lại một trong những tiền kiếp của mình, khi anh là một cai tù tại một quốc gia Nam Mỹ dưới thời thống trị của đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 15. Anh là một cai tù rất hung bạo. Những tù nhân nào qua tay anh đều bị anh mang giày bốt đá vào bụng dưới; những nạn nhân này không bị dập gan, dập ruột thì cũng bể bao tử, đau đớn vô cùng. Thấy được tiền kiếp này anh cảm thấy vô cùng hối hận và lành bệnh. Chính BS. Bruce Goldberg trong tác phẩm của ông, “Past lives, Future lives” cũng đã kể lại trường hợp ông đã chữa lành bệnh mù mắt cho một thiếu nữ khi cho bệnh nhân này thấy lại tiền kiếp của mình. (Sđd, trang 100 – 106).
Đức Thế Tôn trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng đã nêu ra một số thí dụ điển hình về tội phước nghiệp báo. Ngài cho biết những hạng Tăng ni giả danh, phá giới, phạm trai, những người chế diễu, phỉ báng những kẻ tu hành thì chắc chắn sẽ bị đọa và ngục Vô Gián, hoặc sanh làm cầm thú đói khát suốt đời; nếu những người chuyên sát sanh hại vật thì kiếp tới sẽ bị chết yểu; những người không bao giờ toại chí, trong cuộc sống làm việc gì cũng thất bại là vì kiếp trước họ hà tiện, bỏn xẻn, chẳng hề giúp người; những người hay chửi bới mắng nhiếc, nói lời thô ác thì bị quả báo không lưỡi, miệng lở, hoặc nội bộ gia đình quyến thuộc không an ổn, kình chống lẫn nhau; những người đời này mang thân xấu xí, tàn tật là do kiếp trước hay nóng giận…
Là Phật tử, khi đã hiểu rõ về tội phước nghiệp báo như thế, nếu ta có gặp phải những bất hạnh trong kiếp sống này thì nên nỗ lực tu tập để hy vọng được sanh về những cảnh giới tốt đẹp hơn trong tương lai, còn nếu ta đang tận hưởng tất cả những hạnh phúc, sung sướng, giàu có, uy quyền trong kiếp sống hiện tại thì lại càng phải nỗ lực tu tập hơn nữa để tăng trưởng thiện nghiệp cho những kiếp sắp tới. Đức Thế Tôn vì lòng đại bi, thương yêu chúng sanh như con nên đã chỉ cho ta một con đường sáng tỏ như thế trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Lời dạy của Ngài không cao xa mà rất cụ thể, chỉ cho ta phương pháp thực hành rất dễ dàng để không còn bị rơi vào ác đạo: “Trong mỗi tháng những ngày: Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ… Trong mười ngày trai trên đây, nếu có thể mỗi ngày tụng một biến Kinh này.” (Quyển Trung Phẩm Thứ Sáu Như Lai Tán Thán).
Tu Tập, Hành Trì Theo Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Địa Tạng
Đọc tụng Kinh Địa Tạng, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ta phải thấy được hạnh nguyện cao cả của Ngài: “Nếu trong địa ngục còn một chúng sanh bị đau khổ, tôi thề sẽ không thành Phật”, để từ đó những người phát tâm Bồ Tát nỗ lực tu tập, hành trì theo hạnh nguyện của Ngài, theo gót chân Ngài, nương theo oai lực của Ngài đi vào chốn địa ngục để cứu vớt những linh hồn bất hạnh hầu đền trả ơn Tam Bảo, ơn cha mẹ, tổ tiên.
Nhưng địa ngục ở đâu? Có lẽ ta không cần phải tìm địa ngục ở đâu xa, bởi vì địa ngục không nhất thiết là ở thế giới bên kia, địa ngục tồn tại ngay trong kiếp sống này, trên thế giới này; bởi vì nơi nào có ngục tù, có giam cầm, tra tấn, có tiếng rên xiết, thở than là ở đó có địa ngục. Phật giáo là Tôn giáo của Từ Bi, ra đời vì những khổ đau của nhân loại, cho nên người Phật tử phải là những nhân tố tích cực có mặt hàng đầu tại những nơi khổ nạn mà chốn ngục tù là một thí dụ điển hình. Chưa hết, còn bao nhiêu oan hồn vất vưởng, nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng, những phòng hơi ngạt, những trại tập trung, những trại cải tạo, trên Biển Đông, trong những ngục tù oan khuất… đang cần được siêu độ. Đọc tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, được phần công đức nào ta nên hồi hướng đến những chúng sanh bất hạnh này và nguyện cầu cho linh hồn họ mau chóng siêu thoát.
Địa ngục cũng có thể ở chung quanh ta, đó là môi trường không thoải mái mà ta phải sống hoặc làm việc. Đó là những người sống bên cạnh ta, là bạn đồng sở, hàng xóm láng giềng, thậm chí ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái… những người ta không thích nhưng do nghiệp duyên ta phải gần gũi, chung đụng mà đôi khi họ đã tỏ ra rất độc ác, biến đời sống ta thành cõi địa ngục. Jean Paul Sartre, một triết gia nổi tiếng của Pháp đã từng nói “L”enfer c”est les autres” Địa ngục tức là những người chung quanh cũng trong ý nghĩa này. Địa ngục cũng ở ngay chính trong ta, đó là tham lam, giận dữ, hận thù, đố kỵ si mê, mù quáng… đã hàng ngày không ngớt xâu xé ta, biến ta thành những con người ngập chìm trong vô minh tăm tối, bị chế ngự bởi những thú tính thấp hèn. Tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng vì thế cũng có nghĩa là thể hiện những hành động tích cực biến cải chính con người ta, môi trường sống chung quanh ta từ địa ngục trở thành Tịnh Độ.
Từ những công hạnh và nỗ lực tu tập này, người Phật tử thực hành Bồ tát đạo, khi giã từ cõi thế lập tức phát khởi tâm đại từ bi, dâng lời phát nguyện xin bước theo Bồ Tát Địa Tạng đi về chốn địa ngục để lập thêm công đức, cho đến khi nào Đức Phật Di Lặc chuẩn bị ra đời, ta lại xin được trở về cõi Trời Đâu suất, tiếp tục tu học để cùng với Phật Di Lặc trở lại cõi thế trong hội Long Hoa, xây dựng một cõi Tịnh độ mới cho nhân loại. Chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận ta.
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ Tỳ lư, tay cầm Tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật, đặc biệt là trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chiếc Thiền trượng của Bồ Tát Địa Tạng đã, đang và sẽ gõ mãi vào cánh cửa địa ngục. Năng lực của tâm đại bi sẽ làm mở tung tất cả những cánh cửa hắc ám, làm tan rả những xiềng xích trói buộc, giải cứu tất cả những ai còn bị đọa đày trong cõi vô minh, tù ngục để từ đó những hạt giống Bồ đề, những hạt giống thương yêu sẽ nẩy mầm mạnh mẽ trong những linh hồn đau khổ của anh, của chị, của chúng ta, của tất cả những thân bằng quyến thuộc, đang sống hay đã qua đời… Đó chính là thông điệp của Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Wednesday, April 18, 2012
Công Hạnh của Ngài Địa Tạng Bồ Tát
Địa Tạng Bồ Tát
Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sanh trong thế giới Ta bà. Ngài là vị Bồ tát được Đức Phật giao phó trọng trách làm giáo chủ cõi Ta bà trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn nhập diệt, Bồ tát Di Lặc chưa thành Phật. Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết bàn đã có lời phó chúc: “Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao Lợi, trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem trời, người các chúng sanh chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh đó rơi vào đường ác cho dù trong một ngày đêm”. Lời huyền ký đó đã xác lập vị trí cũng như niềm tin tưởng vững chắc của Đức Phật đối với Bồ tát Địa Tạng, bởi Phật biết rằng trong giai đoạn “tiền Phật-hậu Phật” này, khi Phật pháp ngày càng suy vong, chúng sanh cang cường khó độ, thì chỉ có bi tâm, nguyện lực kiên cố như Bồ tát Địa Tạng mới có thể kham lãnh nổi việc giáo hóa độ sanh.
Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ tát. Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ”. Kinh Địa Tạng thập luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương quảng thập luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng, Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng ý nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.Bồ tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa phần chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đế thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên hình ảnh Ngài là một vị xuất gia giải thoát. Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Bồ tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình. Bồ tát cỡi con Đế thính là con linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất, biểu trưng cho Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.
Kinh Địa Tạng có nói đến tiền thân hành Bồ tát đạo của Ngài. Có kiếp Bồ tát là con một vị trưởng giả, vì muốn được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp như chư Phật mà phát thệ nguyện độ tất cả chúng sanh bị khổ nạn. Hoặc có kiếp Ngài làm một cô gái dòng Bà la môn, có người mẹ bất tín Tam bảo, không tin nhân quả, Ngài đã thành tâm cầu thỉnh Phật cứu độ thân mẫu. Có kiếp Ngài làm vua một nước nhỏ kết bạn với vua nước lớn, hai vua thấy nhân dân làm ác mà phát thệ nguyện độ tận nỗi khổ chúng sanh. Hoặc có kiếp Ngài làm cô gái Quang Mục, vì muốn cứu độ mẹ thoát địa ngục mà phát tâm cúng dường vị La hán và phát đại thệ nguyện độ sanh để dẫn dắt mẹ từ cảnh địa ngục vào đạo Bồ đề. Qua tiền thân trong khi hành Bồ tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh.
Nếu ngài Mục Kiền Liên được tôn xưng là đại hiếu, khi thấy mẹ đọa vào trong cảnh khổ địa ngục liền thỉnh Phật nói pháp Vu lan bồn, sắm sửa trai diên cung thỉnh chư Đại đức Tăng trong mười phương sau ba tháng an cư kiết hạ để nhờ thần lực chú nguyện của chúng Tăng mà mẹ được giải thoát thì việc thể hiện hiếu đạo của Bồ tát Địa Tạng cao hơn, cứu độ cha mẹ bằng cách phát thệ nguyện độ tận tất cả những nỗi khổ chúng sanh. Phải chăng, qua sự báo hiếu bằng việc phát nguyện độ tận chúng sanh của Bồ tát, Đức Phật muốn nói lên tinh thần báo hiếu của chư Phật, Bồ tát khác với hàng Nhị thừa và mong mỏi chúng sanh trong đời sau nên thực hành tinh thần báo hiếu tối thượng này. Bồ tát Địa Tạng sơ phát đại nguyện độ sanh cũng không ngoài tinh thần hiếu đạo. Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Bồ tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện.
Các vị Đại Bồ tát trong khi tu tập đều phát lập thệ nguyện nhưng so với thệ nguyện của Bồ tát Địa Tạng thì sâu dày hơn. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Thần đất Kiên Lao thứ mười một. Thần đất Kiên Lao đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ tát đây so với các vị Bồ tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”.
Bồ tát Địa Tạng trong khi hành Bồ tát đạo đã phát thệ nguyện vĩ đại. Nội dung bốn lần phát thệ nguyện của Bồ tát trong khi hành Bồ tát đạo đều tóm thâu trong: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Do vì, Bồ tát với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, Ngài luôn thấy tất cả chúng sanh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong vị lai. Vì thế, trong khi hành Bồ tát đạo, Ngài đã phát thệ nguyện độ hết nỗi khổ chúng sanh, khi nào trên cuộc đời này không còn một chúng sanh đau khổ, đều thành tựu Phật đạo thì Ngài mới yên tâm thọ dụng cảnh giới Niết bàn.
Có thể nói, Bồ tát Địa Tạng đã đến với thế giới Ta bà ác trược này chỉ vì một tâm nguyện duy nhất là cứu vớt tất cả chúng sanh đang lặn hụp trong đại dương sanh tử đưa lên bờ Niết bàn. Cho dù chúng sanh có cang cường, nan điều nan phục đến mấy, Bồ tát vẫn kiên trì không thối chuyển tâm nguyện, không bao giờ xa lìa ý niệm cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện độ sanh của Ngài vững chắc như núi cao, công hạnh lợi ích nhân thiên rộng sâu như biển cả. Chúng ta không thể tán thán hết được công hạnh của Bồ tát, thật đúng như hai câu kệ trong bài tán Phật đã nói: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”.
Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ tát, hàng Phật tử chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sanh vĩ đại của Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Có phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta bà thành Tịnh độ, khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề và để báo đáp thâm ân của Ngài trong muôn một.
Ý nghĩa hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
Chúng ta nhìn thấy trên đây bức hình của pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt bằng gỗ sơn son thiếp vàng, cao 3 mét 60 đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, Việt Nam. Pho tượng nầy đã được phục chế theo mẫu của pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang được trân quý và giữ gìn tại Chùa Ninh Phúc còn gọi là Chùa Bút Tháp tại tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Những đường nét tinh tế, điêu luyện và sự bố cục cân đối trong tư thế ngồi rất hùng tráng của pho tượng đã đạt đến đỉnh cao mỹ thuật của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ 17. Đã nhiều lần, pho tượng đã được đem đi ra ngoại quốc để triển lãm. Hiện nay, pho tượng nầy đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc hàng nghìn pho tượng lớn nhỏ khác nhau bởi nhiều điêu khắc gia tài ba lỗi lạc đã được thỉnh về tôn trí rất nhiều nơi trong nước cũng như rất nhiều chùa viện tại hải ngoại. (Hình trên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (cao 3.60 mét) đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội)
Quan Thế Âm hay Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) là biểu tượng tuyệt vời nhất của tư tưởng trí tuệ, từ bi, giác ngộ giải thoát của Phật Giáo Đại Thừa. Tại Việt Nam, tín ngưỡng tôn thờ tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm bằng gỗ, bằng đất nung và bằng đá hiện còn tồn tại xuất phát từ đời nhà Mạc, cuối thế kỷ thứ 16 (1527-1592). Tượng hình Quan Thế Âm Bồ Tát với tư thế ngồi toà sen rất được phổ biến từ thời đại nầy trở đi. Trong thời đại Nhà Mạc, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là pho tượng đặc trưng cho đỉnh cao của nền Mỹ thuật tượng hình của Phật Giáo Việt Nam.
Tại Việt Nam, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt có một chiều dài lịch sử phát triển đặc biệt cần được tìm hiểu một cách nghiêm túc. Một cách đại cương, pho tượng đã được phát nguồn từ tín ngưỡng trì tụng Thần Chú Đại Bi (Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni hay tiếng phạn đọc là Aryavalokitesvaraya Bodhisattvaya Mahasattvaya dharni), trở nên rất phổ thông và nổi tiếng không những chỉ trong giới tu sĩ xuất gia mà còn đối với giới cư sĩ tại gia. Trong đời nhà Lý đã có hàng ngàn tu sĩ trì tụng thần chú đại bi nầy, trong số đó có một vị thiền sư nổi tiếng là ngài Từ Đạo Hạnh (? -1117), hằng ngày phát nguyện trì tụng hàng trăm biến thần chú đại bi. Theo truyền thuyết được truyền tụng tại Chùa Thầy, tỉnh Hà Tây, ngài Từ Đạo Hạnh đã chứng đắc thần thông diệu dụng do sự nhiệm mầu và trì lực của Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt.
Kể từ thế kỷ thứ 13 trở đi, Bồ tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt được truyền tụng trong khắp dân gian, rất nhiều pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm được đêu khắc để phụng thờ tại rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Tuy vậy, rất ít ngôi chùa tại miền Bắc Việt Nam còn giữ được những pho tượng của giai đoạn lịch sử nầy. Cùng lúc đó, ngôi Chùa Đại Bi đã được xây cất trong. Cái tên gọi của chùa cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng sâu đậm tín ngưỡng trì tụng Thần Chú Đại Bi và sự linh hiển nhiệm mầu của Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm.
Mặc dù Phật giáo tại Việt Nam vào thế kỷ thứ 15 dường như bị mai một, nhưng tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm vẫn còn được tiếp tục điêu khắc chạm trổ để lễ bái phụng thờ. Sự kiện nầy cho thấy tín ngưỡng Quan Âm vẫn còn đóng một vài trò rất quan trọng trong hoàn cảnh dù thịnh đạt hay suy vi. Khi Phật giáo Việt Nam được phục hưng vào thế kỷ thứ 16, hình tượng Bồ Tát Quan Thế Âm lấy lại được vị trí nổi tiếng của nó với hình tượng có nhiều cánh tay đã được điêu khắc chạm trổ để tôn thờ tại nhiều chùa viện khắp cả nước. Trong số hình tượng nầy, có hình tượng Quan Âm Toạ Sơn, Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Tống Tử…
Quan Âm Tống Tử, hay Quan Âm Đồng Tử trong truyền thống tín ngưỡng hình tượng còn được biết với danh hiệu Quan Âm Thị Kính. Cả hai đều phát nguồn từ một câu chuyện trong truyền thuyết dân gian. Hình ảnh pho tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ 18. Tượng hình xuất hiện với thân người nữ, đặc biệt là người nữ không có con trai để nối dõi tông đường, hoặc những người phụ nữ không có gia đình. Bồ Tát Quan Âm hoá hiện với hình ảnh chú bé con sinh ra trong gia đình của người phụ nữ nầy như là sự linh ứng nhiệm mầu do sự cầu nguyện Quan Âm để cho người phụ nữ nầy làm tròn sứ mạng hiếu để trong gia tộc theo truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Rất nhiều người Việt trong chúng ta (đặc biệt là những cụ già) biết rõ về câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Trong quá khứ cũng như hiện nay câu chuyện về Quan Âm Thị Kính còn được trình diễn trong các tuồng cải lương, hát chèo và văn học chữ Nôm. Câu chuyện được kể rằng, có một người phụ nữ đạo hạnh và rất xinh đẹp tên là Thị Kính thuộc con nhà họ Mãng, có chồng tên là Thiện Sĩ. Chồng nàng là một bạch diện thư sinh. Thị Kính vốn là người vợ có công dung ngôn hạnh vẹn toàn thương yêu và tôn thờ chồng hết mực. Nàng hy sinh tất cả thì giờ của mình để chăm sóc cho chàng ăn học mong sao cho chàng có đầy đủ thì giờ để học bài để thi cử đỗ đạt nên danh phận.
Vào một đêm khuya, trong khi Thiện Sĩ đang học bài bên cạnh Thị Kính ngồi đan áo cho chồng mình. Vì quá mệt mỏi do vì thức khuya để học bài, Thiện Sĩ ngủ gục trên bàn. Lúc ấy, Thị Kính nhìn thấy một sợi râu lạ mọc ngược trên cổ của Thiện Sĩ. Thị Kính nghĩ rằng sợi râu mọc ngược như vậy là không tốt, bèn dùng kéo để xắp bỏ sợi râu ấy. Bất hạnh thay, ngay trong lúc đó Thị Kính làm đụng cái kéo vào cổ của Thiện Sĩ khiến cho Thiện Sĩ bị thức giấc. Chàng ta hoảng sợ và kêu la cầu cứu vì tưởng rằng vợ mình là Thị Kính muốn giết mình. Mẹ chàng Thiện Sĩ chạy đến và kết tội oan cho Thị Kính là cố ý giết chồng. Do vậy, Thị Kính đã bị mẹ chồng đuổi về quê cha mẹ ruột của mình.
Vì quá đau khổ cho nỗi oan của mình, Thị Kính lại nghĩ rằng nếu mình quay về nhà cha mẹ ruột thì có thể mang lây tiếng xấu cho cha mẹ, do vậy, nàng trốn chạy khỏi nhà chồng ra đi lang thang, cuối cùng nàng bèn giả gái thành trai để tìm đến chốn thiền môn xuất gia đầu Phật, ngày đêm kinh kệ tu niệm. Sau được Sư Cụ Trù Trì một ngôi chùa tế độ cho xuất gia tu học và đặt cho pháp hiệu là Kính Tâm. Và kể từ đó Thị Kính được gọi là Kính Tâm (chú tiểu Kính Tâm).
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
Thế nhưng chẳng bao lâu, một tai nạn khác lại giáng xuống đầu chú tiểu Kính Tâm. Có một cô con gái tên là Thị Mầu, vốn con nhà giàu sang phú quý, trâm anh thế phiệt. Thị Mầu thường lui tới cửa Phật và đã lụy tình vì chú tiểu Kính Tâm. Chú tiểu Kính Tâm vốn là nàng con gái Thị Kính giả trai làm sao có tình yêu với Thị Mầu. Không được đáp ứng tiếng gọi của ái tình, do vậy Thị Mầu mới đem tâm chọc ghẹo tìm cách báo thù.
Thị Mầu bèn giao du với chàng trai vốn là người làm công phục vụ trong nhà cho nên đã có bầu mang thai. Vì chưa cưới chồng mà đã có thai nên Thị Mầu bị người hàng xóm láng giềng tra khảo gạn hỏi. Thị Mầu bảo rằng nàng ta đã bị chú tiểu Kính Tâm quyến rũ và tác giả đứa bé trong bụng của Thị Mầu chính là chú tiểu Kính Tâm.
Do vậy, chú tiểu Kính Tâm bị đưa ra trước công đường xử phạt nặng nề vì tội quan hệ trai gái không chính đáng. Mặc dù bị xử oan, nhưng Kính Tâm vẫn không để lộ tông tích của mình là gái giả trai. Vì lòng từ bi vô hạn, Sư Cụ Viện Chủ ngôi chùa phải trả tiền thế chân tại ngoại với giá rất đắt để chú tiểu Kính Tâm về chùa tiếp tục tu niệm. Tuy nhiên, Kính Tâm không được ở trong nội viện mà phải ăn ở ngoài tháp chuông chùa gần nơi lối ra vào cổng tam quan.
Sau khi Thị Mầu hạ sinh đứa con trai, Thị Mầu mới đem bỏ trước cổng tam quan của chùa. Với tình yêu thương vô bờ sẵn có của một người phụ nữ, Kính Tâm nhận đứa con trai nầy làm con nuôi. Hằng ngày Kính Tâm đi xin sữa và thức ăn quanh xóm để nuôi chú bé vốn là đứa con của Thị Mầu. Sự kiện nầy khiến Kính Tâm lại càng bị người hàng xóm láng giềng dèm pha sỉ nhục. Kính Tâm chăm sóc cậu bé ròng rã 3 năm và phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, Kính Tâm phát bệnh nặng. Ngại rằng mình phải bị chết vì cơn bạo bệnh đang hoành hành, Thị Kính (chú tiểu Kính Tâm) mới viết thư gởi cho cha mẹ ruột của mình để xin song thân phụ mẫu đem chú bé giao cho Sư Cụ Viện Chủ ngôi chùa mà Kính Tâm đang ở, trước khi Kính Tâm nhắm mắt lìa trần.
Sau khi Kính Tâm chết, người dân trong làng tắm rửa tẩm liệm Kính Tâm, họ mới phát hiện ra rằng chú tiểu Kính Tâm vốn là gái giả trai vào chùa tu niệm, mới nhận chân được lòng từ vô hạn của Thị Kính cũng như nỗi đau khổ nhọc nhằn vì bị bạc đãi bởi bên nhà chồng và dân chúng trong làng. Tất cả mọi người dân làng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với Thị Kính đã cử hành tang lễ cầu siêu vô cùng trang nghiêm và trọng thể để giải oan cho nàng.
Thật là linh hiển nhiệm mầu, trong giữa lúc cử hành tang lễ có một mùi hương thơm ngào ngạt toả khắp không gian, mọi người đang tham dự tang lễ ngước nhìn lên trời mới thấy Thị Kính xuất hiện với hình dáng Mẹ Hiền Quan Thế Âm đang đứng giữa mây trời với năm sắc hào quang sáng ngời.
Qua câu chuyện nầy chúng ta thấy Bồ Tát Quan Thế Âm xuất hiện với thân tướng người nữ trong hoá kiếp cuối cùng của ngài. Kỳ thực, trong câu chuyện Quan Âm Thị Kính vừa kể trên đây của Việt Nam, ngài không có xuất hiện với nghìn tay nghìn mắt như pho tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm nổi tiếng tại Chùa Bút Tháp, tỉnh Bắc Ninh Việt Nam. Tuy vậy, câu chuyện Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Tống Tử rất gần gủi với hình ảnh người bình dân là Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay của Ngài.
Đối với người đàn bà mà không sinh được con trai để nối dõi tông đường muốn cầu được sinh con trai ngỏ hầu tránh khỏi tiếng dèm pha chế nhạo của tiếng đời. Điều nầy không những chỉ xuất hiện trong văn hoá của Phật Giáo Việt Nam mà đã có gốc rễ từ các nước trong vùng Đông Nam Châu Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn. Tất cả đều bắt nguồn từ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn.
Có một đoạn kinh trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa liên hệ trực tiếp đến sự linh thiêng mầu nhiệm khi người phụ nữ cầu xin được sinh con trai hay con gái như sau,“Nhược hữu nữ nhơn, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường, Quan Thế Âm Bồ tát tiện sanh phước, đức trí huệ chi nam, thiết dục cầu nữ, lễ bái cúng dường, Quan Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức, trí tuệ chi nữ”(Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái hình tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến).
Mặc dù trong văn bản kinh Pháp Hoa tiếng Phạn cũng như những văn bản phiên dịch tiếng Anh thì Quan Thế Âm không có phân biệt Nam thân hay nữ tướng. Nhưng trong truyền thống của Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam, thì Bồ Tát Quan Thế Âm được biết với thân tướng người nữ. Qua hai câu chuyện Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Tống Tử đến tích truyện Quan Âm Thị Kính đã được truyền tụng trong dân gian, chúng ta thấy rõ rằng Quan Âm tại Việt Nam xuất hiện với hình tướng người nữ. ( Hình bên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (cao 2.80 mét) đang được tôn trí tại Tiền Đường của Chùa Trúc Lâm, Chicago, USA.)
Quan Âm Thị Kính có cùng một nguồn gốc với Quan Âm Đồng Tử, rất được phổ biến trong dân gian hầu hết đạo hữu Phật tử Việt Nam đều biết. Tuy nhiên cũng có một số thanh thiếu niên chưa có cơ hội tìm hiểu cho nên chúng tôi xin được trình bày về chi tiết truyện tích Quan Âm Thị Kính. Hình tượng Mẹ Hiền Quan Âm bồng con hay Quan Âm có đồng tử theo hầu xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam
Ngoài hình ảnh Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Thị Kính, trong dân gian Việt còn có hình ảnh Quan Âm Diệu Thiện. Kỳ thực Quan Âm Diệu Thiện có gốc rễ trong tín ngưỡng dân gian của Phật Giáo Trung Hoa bắt đầu vào thế kỷ thứ XI.
Câu chuyện về Quan Âm Diệu Thiện được truyền tụng vào thế kỷ XI kể rằng có một vị vua không có con trai để nối truyền ngôi vị. Sau nhiều ngày cầu khẩn tha thiết lễ bái cầu nguyện, thay vì sinh được con trai thì hoàng hậu hạ sinh 3 người con gái tướng đẹp kiều diễm thướt tha. Hai người chị gái có chồng, riêng người thứ ba có tên là Diệu Thiện quyết định không có chồng để đi tu trở thành một ni cô. Diệu Thiện cầu nguyện nương nhờ thần lực của Ngọc Hoàng và xuống địa ngục tầng thứ 18 mà cứu vớt vô số chúng sinh đang bị chìm đắm khổ đau trong chốn địa ngục. Sau đó, Diệu Thiện đến núi Hương Cao và toạ thiền ở đó suốt chín năm và chứng đắc thần thông pháp lực nhiệm mầu. Với thần thông diệu lực nầy Diệu Thiện đã biến hoá mình thành một bác sĩ để điều trị cơn bệnh ngặt nghèo của vua cha bằng cách xả bỏ tay chân và mắt mũi cuả mình. Cuối cùng Diệu Thiện biến hiện thành Bồ Tát Quan Thế Âm có Nghìn Tay Nghìn Mắt và hướng dẫn gia đình hoàng tộc của Diệu Thiện trở về con đường chân lý gỉai thoát giác ngộ.
Thật khó mà biết được câu chuyện kể trên từ Trung Hoa được truyền sang Việt Nam vào giai đoạn nào. Vào khoảng thế kỷ thứ 16, Diệu Thiện trở thành một danh hiệu khác là Quan Thế Âm. Trong một văn bia đời nhà Mạc, năm 1578 một học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cho biết rằng pho tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại Chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong đạo Phật. Mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 17 vào đầu thế kỷ thứ 18, trong văn học chữ Nôm có vài văn bản về chuyện tích về Diệu Thiện và Quan Âm Nam Hải đã được phiên dịch trong văn Học chữ Nôm.
Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại Bi Tâm Đà La Ni. Dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong chùa viện Phật giáo. Câu chuyện Quan Âm Diệu Thiện gíup cho chúng ta lý giải về hình tượng đặc thù của Bồ Tát với nghìn tay nghìn mắt. Tích chuyện nầy cũng gắn liền với tư tưởng hiếu nghĩa của dân gian, đặc biệt đối với người đàn bà không có con trai để nối dõi tông đường. Trên thực tế, chỉ có những ngôi chùa lớn và những đại thí chủ giàu có tiền bạc mới có đủ phương tiện để phát tâm cúng dường điêu khắc chạm trổ pho tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt với kích cỡ và giá trị như pho tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang tôn trí tại toà nhà chính của Chùa Bút Tháp.
Cho dù Quan Âm Bồ Tát hoá hiện nhiều thân tướng khác nhau trong truyền thống tín ngưỡng tôn thờ của Phật giáo Việt Nam, ngày nay, hình tượng Quan Thế Âm trong tín ngưỡng Tịnh Độ Tông được biết như là vị Bồ Tát trợ tá cho Đức Phật A Di Đà trên cõi Tây Phương Tịnh Độ để tiếp dẫn hương linh vãng sinh Cực Lạc, như là hình ảnh tuyệt vời đang ngồi trên đỉnh núi cao và hướng về Biển Nam Hải để cứu vớt thuyền bè nạn nhân vốn là thương nhân đang lâm nạn trên biển cả. Đúng vậy, trên đường vượt biển tìm tự do của hàng triệu người Việt, đã có sự cứu vớt linh hiển nhiệm mầu của Mẹ Hiền Quan Thế Âm. Do vậy, Quan Thế Âm Bồ Tát cần có Nghìn Tay Nghìn Mắt là để nhìn và để thấy cũng như cứu vớt tất cả vạn loại chúng sinh đang chìm đắm trong sông mê biển khổ. Hơn thế nữa, với lòng từ bi cứu tế vô hạn, Quan Thế Âm Bồ Tát còn hiện hữu trong nhiều tầng của địa ngục để cứu độ sinh linh…
Triết lý từ bi trí tuệ, tư tưởng giải thoát giác ngộ vô cùng sâu thẳm của Phật giáo Đại thừa đã thấm nhuần vào trong từng làn da thớ thịt, trong từng hơi thở và nụ cười của chúng ta kể từ thuở bình minh của Phật giáo. Hình tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là biểu tượng tuyệt vời nói lên được những ý nghĩa sâu thẳm đó.
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Chùa Trúc Lâm, Chicago, Chủ Nhật, 29 tháng 04 năm 2007
(Ngày Lễ An Vị Tôn Tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt).
Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại Bi Tâm Đà La Ni. Dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong chùa viện Phật giáo. Câu chuyện Quan Âm Diệu Thiện gíup cho chúng ta lý giải về hình tượng đặc thù của Bồ Tát với nghìn tay nghìn mắt. Tích chuyện nầy cũng gắn liền với tư tưởng hiếu nghĩa của dân gian, đặc biệt đối với người đàn bà không có con trai để nối dõi tông đường. Trên thực tế, chỉ có những ngôi chùa lớn và những đại thí chủ giàu có tiền bạc mới có đủ phương tiện để phát tâm cúng dường điêu khắc chạm trổ pho tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt với kích cỡ và giá trị như pho tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang tôn trí tại toà nhà chính của Chùa Bút Tháp.
Cho dù Quan Âm Bồ Tát hoá hiện nhiều thân tướng khác nhau trong truyền thống tín ngưỡng tôn thờ của Phật giáo Việt Nam, ngày nay, hình tượng Quan Thế Âm trong tín ngưỡng Tịnh Độ Tông được biết như là vị Bồ Tát trợ tá cho Đức Phật A Di Đà trên cõi Tây Phương Tịnh Độ để tiếp dẫn hương linh vãng sinh Cực Lạc, như là hình ảnh tuyệt vời đang ngồi trên đỉnh núi cao và hướng về Biển Nam Hải để cứu vớt thuyền bè nạn nhân vốn là thương nhân đang lâm nạn trên biển cả. Đúng vậy, trên đường vượt biển tìm tự do của hàng triệu người Việt, đã có sự cứu vớt linh hiển nhiệm mầu của Mẹ Hiền Quan Thế Âm. Do vậy, Quan Thế Âm Bồ Tát cần có Nghìn Tay Nghìn Mắt là để nhìn và để thấy cũng như cứu vớt tất cả vạn loại chúng sinh đang chìm đắm trong sông mê biển khổ. Hơn thế nữa, với lòng từ bi cứu tế vô hạn, Quan Thế Âm Bồ Tát còn hiện hữu trong nhiều tầng của địa ngục để cứu độ sinh linh…
Triết lý từ bi trí tuệ, tư tưởng giải thoát giác ngộ vô cùng sâu thẳm của Phật giáo Đại thừa đã thấm nhuần vào trong từng làn da thớ thịt, trong từng hơi thở và nụ cười của chúng ta kể từ thuở bình minh của Phật giáo. Hình tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là biểu tượng tuyệt vời nói lên được những ý nghĩa sâu thẳm đó.
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Chùa Trúc Lâm, Chicago, Chủ Nhật, 29 tháng 04 năm 2007
(Ngày Lễ An Vị Tôn Tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt).
Thích Hạnh Tuấn
Nguồn: Chuaphaphoa.com
Giá trị giác ngộ của đức Phật đối với kiếp nhân sinh
Đức Phật Bên Cây Bồ Đề
Như gã nghèo trong thí dụ của phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký của kinh Pháp Hoa, cứ đi lang thang từ nơi này đến nơi khác để tìm kế sinh nhai mà không hề hay biết rằng ở trong chéo áo của mình vốn có một viên ngọc quý, giá đáng liên thành.Cũng vậy, con người lăn lóc trong ba cõi sáu đường, tạo nghiệp, thọ khổ vẫn không hề hay biết rằng mình vốn có khả tính giác ngộ và giải thoát.
Là một con người, thường thì sinh ra, trưởng thành, tạo dựng sự nghiệp, lập gia thất, có con cái, cháu chắt, già nua, rồi qua đời, kết thúc sự hiện hữu của một kiếp người trong thân phận lầm lũi của chúng sinh.
Đa phần trong số ấy, khi cuộc sống có gặp phải những khổ não, thì hoặc là tìm cách trốn chạy trong những hình thái cứu rỗi của thế giới thần quyền, hoặc là mặc nhiên chịu đựng như một thứ định mệnh tất yếu không thể tránh khỏi.
Đối với người bình phàm, mục đích của đời người không vượt qua những thành tựu tương đối về mặt danh vọng địa vị xã hội, về mặt vật chất của cải, về những dục vọng bản hữu của một chúng sinh.
Hạnh phúc là một từ ngữ dù mang tính mơ hồ trừu tượng, nhưng lại là một diễn dịch cụ thể đối với mục tiêu của cuộc sống con người.
Trong đời sống thường nhật, hạnh phúc thường xuyên là cái gì để được vươn tới hơn là cái gì đang được thọ nhận.
Khi còn trẻ đang đi học, hạnh phúc sẽ là được làm bác sĩ. Khi làm bác sĩ, hạnh phúc sẽ là kiếm ra được nhiều tiền, được mọi người kính trọng. Khi kiếm ra được nhiều tiền, hạnh phúc sẽ là một đời sống giàu sang sung túc, v.v…
Cứ thế, hạnh phúc luôn luôn ở phía trước để con người phải cố gắng vươn tới mà thành đạt. Nhưng một khi hướng tâm vươn tới cái gì đó thì quên đi tất cả những gì mình đang có, đang thọ nhận.
Cho nên, hạnh phúc, như vậy, chỉ là tên gọi suông, là ảo tưởng không bao giờ hiện thực. Hiện thực của đời sống là những giây phút của bận rộn, vất vả, cố gắng, mệt nhọc, lo lắng, suy tư, phiền muộn, biếng nhác, gian trá, thù hận, vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, tham lam,v.v…
Những hiện tượng của đời sống đó, hiện hữu như những đợt sóng nhô lên, xô tới, rồi lặn xuống, mất đi. Đợt sóng này qua, đợt sóng khác xuất hiện. Không một phút giây nào mà con người không bị xô đẩy bởi vô số những cơn sóng được tạo tác từ những ngọn gió tham, sân, si.
Có người nói rằng, giây phút vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn đó chính là hạnh phúc!
Nếu quả thật vậy thì mục đích mà đời người nỗ lực để vươn tới quá mong manh, quá tạm bợ, quá ngắn ngủi! Trong những giây phút vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn đó, con người có thật sự cảm nghiệm một cách chân xác và toàn vẹn sự vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn như chính nó đang diễn ra?
Rất hiếm ai có thể làm được như vậy! Đa phần người ta không thật sự sống trọn vẹn cho giây phút phù du ấy. Con người luôn luôn sống hời hợt, qua loa trước tất cả mọi sự cố xảy ra trong đời mình, có chăng chỉ là những giây phút hoài niệm dĩ vãng, lôi kéo quá khứ, mời gọi tương lai về sống cho hiện tại. Bản chất của vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn ấy chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Thứ nhất, chúng thật ra chỉ là những cảm quan mang đầy tính chủ quan của từng người. Vì có thể đối với người này, nó là vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, nhưng đối với những người khác thì lại không.
Thứ hai, chúng là sản phẩm của vô minh và tham ái được tạo dựng trong một tâm thức vọng động và điên đảo, cho nên, con người sẽ không bao giờ biết đủ để dừng lại trước những cám dỗ của dục lạc thế gian qua các hình thái vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn.
Thứ ba, vì nó sinh khởi từ vô minh và các phiền não như tham, sân, si, cho nên, nó thường trực chứa đựng mầm mống của bất an và khổ não. Cũng vì thế, bản chất của vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, tự nó thật ra không vui vẻ, sung sướng và thỏa mãn tí nào cả.
Giữa cái khổ và cái vui tạm bợ kia, con người đôi khi trong chừng mực nào đó vẫn còn có cơ hội để chọn lựa. Nhưng, cái già, bệnh và chết thì không ai có thể tránh khỏi. Chúng vốn ở ngay trong bản chất của sự hiện hữu của thân phận con người.
Chính vì vậy, đã có sinh thì ắt phải có già, bệnh, chết. Sự có mặt tất yếu của già bệnh chết không phải chỉ nói lên bản chất vô thường của pháp hữu vi, mà điều quan trọng hơn đối với con người là nó cho thấy cái giới hạn không thể vượt qua, cái bất toàn không thể bù đắp, và cũng qua đó chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về cái khổ đau thống thiết của kiếp nhân sinh!
Cuộc đời như thế thì quả đúng như lời đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú, phẩm Lão, kệ thứ 146:
“Làm sao vui cười, có gì thích thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thiêu đốt? Ở trong chỗ tối tăm bưng bít, sao không tìm tới ánh quang minh?”
Dõi theo bước chân của chúng sinh trên các nẻo đường sinh tử từ vô thỉ kiếp đến nay là vô minh và các phiền não. Cho nên, con người luôn luôn bị buộc trói và vây kín trong cái thành trì tối tăm và nhỏ hẹp của bản ngã vị kỷ, của tham lam, thù hận, tật đố và nghi kỵ.
Ở trong môi trường ấy, mọi hành tác của thân, miệng, ý đều bị điều động bởi vô minh và các phiền não, để dẫn đến con đường tạo nghiệp rồi thọ khổ. Mê hoặc và khổ lụy này làm nhân duyên cho mê hoặc và khổ não khác.
Cứ thế, con người chạy quanh trong cái vòng tròn tử sinh đau khổ, từ kiếp này sang kiếp khác, từ cõi này đến cõi nọ. Như vậy, nếu con người chưa đốn phá được vô minh và diệt trừ phiền não thì cuộc đời là tù ngục trong đêm dài tăm tối.
Quả thật vậy, tri thức thường nghiệm mà con người đang tự hào đó vốn cưu mang nhiều điều bất toàn. Nó là cái tập hợp nhận biết giới hạn của ngũ quan và ý thức.
Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân chỉ nhận biết được các pháp qua sự tiếp xúc trực tiếp và hiện tiền trong một khoảng không gian và thời gian rất hạn cuộc, bởi vì sự tiếp xúc chỉ có thể xảy ra khi nào có sự hiện hữu đồng lúc và tại cùng một điểm không gian của căn, cảnh và thức.
Cái nhận thức của ngũ quan, do đó, không thể xảy ra trong quá khứ hoặc tương lai, cũng không thể xảy ra ở bất cứ dị điểm không gian nào khác.
Ý thức cũng là tập hợp của những nhận thức do kinh nghiệm tích tập. Ý thức không thể nhận biết một pháp nào mà nó chưa từng có kinh nghiệm biết đến.
Cho dù là lông rùa sừng thỏ đi nữa, ý thức cũng đã có kinh nghiệm nhận biết, nhận biết về cái lông, con rùa, cái sừng, con thỏ. Một con người với cấu trúc giới hạn của ngũ quan, não bộ và ý thức, với môi trường sinh sống hạn cuộc trong một khoảng không gian và thời gian, cho nên, tri thức mà con người có được thật là nhỏ hẹp.
Ngay dù là một nhà bác học thông thái thì cũng vẫn còn rất nhiều điều chưa biết hết. Cho dù con người có thể khám phá hết các hành tinh trong thái dương hệ mà chúng ta đang sống đây, thì ở ngoài vũ trụ mênh mông không ngằn mé kia vẫn còn có vô lượng thế giới, vô lượng thái dương hệ, vô lượng dải ngân hà mà với tri thức thường nghiệm con người không làm sao biết hết được.
Hơn nữa, tri thức thường nghiệm xây dựng trên nền tảng của tâm phân biệt vọng chấp, cho nên nó thường xuyên bị dính mắt trong các đối tượng nhận biết. Nó là tác nhân mà cũng là tác duyên cho sự hiện hữu mang bản chất sinh diệt không ngừng của vọng tâm.
Nhận thức của con người còn bị tập khí của bản ngã vị kỷ trói buộc lại. Trong tiến trình nhận thức ảnh hưởng của bản ngã vị kỷ có sức tác động rất lớn.
Khi nghe một điều gì, chẳng hạn, con người không nghe với một tâm thức rỗng lặng và cởi mở mà nghe với sự tham dự sâu đậm của hậu cảnh tâm thức, của bản ngã vị kỷ: chỉ nghe những gì mình thích, mình có cảm tình; chối bỏ không nghe, đóng kín tâm thức trước những điều mình không thích, không ưa, những gì ngược lại với nhận thức chủ quan, với cá tính của bản ngã vị kỷ.
Mắt, mũi, lưỡi, thân và ý cũng vậy. Cái gì thích thì ham muốn có được, tham. Cái gì không thích thì ghét bỏ, sân. Cái thích mà không tới tay, ngược lại cái không thích mà cứ tiếp xúc thì bực tức, sân si.
Chính vì thế, giới hạn của tri thức cũng là giới hạn của tình cảm, tâm tư. Tâm thức không thể trải rộng ra xa hơn ngoài cương vức của bản ngã vị kỷ.
Tình cảm, do đó, vì tham ái mà có. Chỉ có thể thương yêu người khác khi bản ngã vị kỷ chịu mở cửa để đón nhận. Ngược lại, kẻ nào làm đụng chạm đến bản ngã vị kỷ thì nó tức thì đóng kín cửa lại, không tiếp nhận cái hình ảnh của người đó, cho dù là cha mẹ, vợ chồng hay con cái.
Tình thương yêu đó quả thật đã bị điều kiện hóa, đã bị trói chặt trong cái vỏ ốc nhỏ hẹp của bản ngã vị kỷ.
Bản chất của tri thức và tình cảm ấy chính là vô minh và phiền não. Nó cũng là căn nguyên gây ra bao nhiêu khổ não. Muốn hết khổ đau thì phải mở tung những trói buộc của tri thức và tình cảm phàm tình.
Mở tung nó bằng cách nào? Bằng cách đập phá tan nát cái tri thức và tình cảm phàm tình đó? Nếu như vậy thì con người còn lại gì? Một con người không có nhận thức và tình cảm? Hay là giống như một khối gỗ đá vô tri?
Thật ra vấn đề không phải rắc rối như vậy. Chỉ đơn giản thôi: cái gì buộc thì mở cái đó. Mở cái buộc chứ không phải phá cái bị buộc. Cái buộc là gì? Là vô minh và các phiền não.
Vậy mở cái buộc tức là mở vô minh và các phiền não, chứ không phải phá nát cái nền của nhận thức và tình cảm ở trong con người.
Nhưng mở như thế nào? Mở tức là chuyển, là chuyển hóa, chuyển hóa vô minh và phiền não thành giác ngộ và giải thoát. Cho nên ngay sau khi thành Đạo, đức Phật đã tuyên bố:
“Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi! Hỡi kẻ làm nhà! Nay ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được làm nhà nữa! Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi đã tan vụn cả rồi. Trí ta đã đạt đến vô thượng Niết-bàn, bao nhiêu dục vọng đều dứt sạch cả.”
Làm sao để chuyển hóa được vô minh và phiền não? Vô minh và phiền não như bóng tối. Vậy muốn chuyển hóa bóng tối thì phải làm gì? Phải nhờ đến ánh sáng để xóa tan bóng tối. Ánh sáng đó chính là trí tuệ. Muốn xóa đi bóng tối của vô minh và phiền não thì phải vận dụng được năng lực của từ bi và trí tuệ.
Vận dụng bằng phương thức nào? Bằng con đường nỗ lực thực nghiệm giới, định và tuệ qua sáu pháp môn cụ thể là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Đó là con đường trên cầu Phật đạo, dưới cứu khổ quần sinh của Bồ-tát. Con đường dành cho những ai cảm nghiệm được một cách sâu sắc rằng tất cả mọi đau khổ của con người, của chúng sinh đều khởi sinh từ vô minh và phiền não.
Duy chỉ có mỗi một giải pháp để dứt trừ khổ đau là phát thệ nguyện giác ngộ và giải thoát cho mình và người. Sự thành tựu tuệ giác tối thượng của Bồ-tát Hộ Minh cách nay trên hai mươi lăm thế kỷ là một điển hình sáng chói của chí nguyện cao cả đó.
Trong thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay có quá nhiều bất an và khổ não, từ những biệt nghiệp sai khác của mỗi người đến những cộng nghiệp thâm trọng của tập thể.
Chiến tranh, thù hận, khủng bố, đói khổ, bệnh tật, tai ương, v.v… cứ trút xuống thân phận bé bỏng của con người. Cuộc đời càng mong manh và khổ não thì sự giác ngộ của đức Phật càng có giá trị và cấp thiết.
Chính vì vậy mà ngày nay đạo Giác ngộ đã được lưu truyền rộng rãi trên khắp thế giới. Càng ngày con người càng nhận thức ra được rằng trí tuệ giác ngộ và đức từ bi không giới hạn mà đức Phật đã khai thị là phương thức hữu hiệu nhất để mang lại hòa bình, an lạc, tự do, nhân tính và công lý đích thực cho mọi người, mọi chủng tộc.
Đây cũng là lý do khiến cho tổ chức Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận và tổ chức Đại lễ kỷ niệm ngày Đản sinh của đức Phật mỗi năm tại trụ sở chính ở thành phố New York, Hoa Kỳ.
Theo: Tập san Pháp luân
Tổ Sư Đạt Ma
Tổ-sư Bồ-đề-đạt-ma
Sự thật có lẽ giản dị vậy thôi
Sự thật có lẽ giản dị vậy thôi
Đạt Ma mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép, đang mải miết bôn tẩu thiên lý
Trong các chùa thuộc Bắc Tông thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước,
râu hùm, hàm én, mắt lòe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép, đang mải miết bôn tẩu thiên lý.
râu hùm, hàm én, mắt lòe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép, đang mải miết bôn tẩu thiên lý.
Đó chính là Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) vị tổ thứ 28 sau Phật Thích Ca Mâu Ni và là Sư tổ của Thiền tông Trung Hoa, đồng thời cũng là sư tổ võ phái Thiếu Lâm Tự ở Trung Hoa. Ngài viên tịch năm 543, đến nay đã hơn ngàn năm. Nghi án “chiếc dép tổ sư” đã khiến cho người đời tốn khá nhiều công sức để tranh luận và hình như chưa bao giờ phân định được thị phi.
Tình cờ một lần đi thăm Thiền viện Trúc Lâm yên tử, tôi được chứng kiến, hai vị sư tăng, có lẽ học ở một trường hạ nào đó, đang tranh luận về bức tranh này, một vị trỏ vào chiếc dép trên vai Thiền sư bảo: Là Đạo pháp để lại, đạo pháp mang đi. Vị kia chỉ vào chân trần của sư tổ nói: Sắc là không, không là sắc (chắc ý nói, tuột dép đi chân trần, sư tổ, chẳng coi tấm thân xá lợi là gì?!). Rồi hai vị sư tăng nỗ lực viện dẫn kinh sách, biện bác, bảo vệ chính kiến của mình.
Nhìn hai vị sư tăng, tôi giật mình tự hỏi, hơn nghìn năm qua, biết bao nhiêu cuộc tranh luận vô bổ như vậy đã diễn ra. Vì sao họ chỉ chú mục đến bức tranh, mà không chịu quay đầu nửa vòng, để đọc bức đại tự ghi tôn chỉ của hệ phái mà họ đang tu tập: “Bất lập văn tự /Giáo ngoại biệt truyền/Trực chỉ nhân tâm /Kiến tính thành Phật”. (Không lệ thuộc vào kinh sách, truyền dạy ngoài giáo lý, hướng thẳng đến tim người, thấy chân lý mà giác ngộ).
Lại nhớ đến chuyện về buổi hội kiến của sơ tổ Thiền tông (Bodhidharma) với Lương Vũ Đế, buổi đầu ông đặt chân đến Trung Quốc. Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?". Đạt Ma đáp: “Không có công đức”. Vua lại hỏi: “Vậy công đức chân thật là gì?”. Sư đáp: “Trí phải được Thanh Tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không hoàn toàn, như vậy mới là công đức”. Vua lại hỏi: “Ai đang đối diện với trẫm đây?”. Sư đáp: “Tôi không biết”.
Ôi! Bồ đề đạt ma! Hành trạng ngài sao mà kỳ bí? Vũ Đế, xây chùa, chép kinh, độ tăng… mà ngài còn chưa cho là công đức thì làm gì mới được coi là công đức đây? Hội kiến không thành Ngài vượt sông Dương Tử mênh mông sóng dữ, chỉ với chiếc thuyền con, rồi bỏ lên núi, ngồi quay mặt vào vách đá 9 năm, truyền y-bát cho Huệ Khả xong thì viên tịch nhưng rồi có người lại gặp Ngài trên núi Hùng nhĩ, vai quảy một chiếc gậy, đầu gậy có xỏ một chiếc dép. Rồi ngay cả chuyện ngài truyền tâm ấn cho Huệ Khả, người thường cũng đâu dễ gì hiểu nổi. Tương truyền, trước khi về, gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
Ôi! Bồ đề đạt ma! Hành trạng ngài sao mà kỳ bí? Vũ Đế, xây chùa, chép kinh, độ tăng… mà ngài còn chưa cho là công đức thì làm gì mới được coi là công đức đây? Hội kiến không thành Ngài vượt sông Dương Tử mênh mông sóng dữ, chỉ với chiếc thuyền con, rồi bỏ lên núi, ngồi quay mặt vào vách đá 9 năm, truyền y-bát cho Huệ Khả xong thì viên tịch nhưng rồi có người lại gặp Ngài trên núi Hùng nhĩ, vai quảy một chiếc gậy, đầu gậy có xỏ một chiếc dép. Rồi ngay cả chuyện ngài truyền tâm ấn cho Huệ Khả, người thường cũng đâu dễ gì hiểu nổi. Tương truyền, trước khi về, gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của con, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự". Sư đáp: "Con được lớp da của ta rồi".
Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của con như cái mừng thấy Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa". Sư nói: "Con được phần thịt của ta rồi".
Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Tứ đại vốn không, Ngũ uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của con là không một Pháp nào khả được". Sư đáp: "Con được bộ xương của ta rồi".
Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo: "Con đã được phần tuỷ của ta"
Giữa bời bời những công án rối rắm mê hồn như này, hãy bắt đầu từ chiếc dép của tổ sư, xem chừng, còn khả hữu. Song, nếu luận như hai vị tăng sư kia, lời qua tiếng lại, thiên ngôn, vạn ngữ biết bao giờ mới ngộ ra sự thật. Ngôn ngữ, là thứ vưu vật đặc hữu, chỉ con người mới có, ngôn ngữ có sự kỳ diệu của ngôn ngữ, nhưng cũng có sự suy đồi của ngôn ngữ. Ngôn ngữ kỳ diệu là ngôn ngữ đem đến cho con người sự cảm thông và chia sẻ, ngôn ngữ suy đồi là thứ ngôn ngữ vu khoát, trí trá, che đậy những tư tưởng xấu xa, bằng những lời có cánh, nhằm mê dụ lòng người.
Sự lầm lẫn của chúng ta cũng giống như Lương Vũ Đế, dương dương tự đắc khoe việc tô tượng, đúc chuông, xây chùa, chép kinh, mà không ngộ nổi những lời khai thị, rất rõ ràng về yếu tính phật pháp của Bồ đề sư tổ. Chín năm ngồi nhìn thạch bích, hẳn sư tổ đã thấu triệt được hiền minh của sự im lặng. Chúng ta chỉ có một đời sống duy nhất, và đời sống đó đang bị xới tung lên, bởi những hành ngôn, diễn ngôn đẹp đẽ và dối trá. Tôi đã hiểu vì sao Ngài lại trao truyền tâm ấn cho Huệ Khả, vị đệ tử đã dùng sự im lặng để trả lời ngài.
Lúc ấy, tôi chợt nảy ra một ý, được kiến diện tâm ảnh có khác nào kiến diện tổ sư, liền tĩnh tâm, thầm hỏi tổ sư: “Bạch Sư tổ, vì sao người lại chỉ mang mỗi một chiếc dép?”. Gương mặt đầy dữ tợn của vị thiền sư gốc Nam Á, giãn ra trong một nụ cười hỉ xả: “Ta bị rơi mất một chiếc rồi mà!”.
Sự thật có lẽ chỉ giản dị như vậy thôi
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
Trong cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lăng của Thực dân Pháp nhằm giành lại chủ quyền cho dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt nam vào thế kỷ XIX, tiền nhân chúng ta đã không quản ngại máu xương, gian khổ cùng một lòng quyết đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dày công gầy dựng. Xuyên suốt từ Nam đến Bắc, ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước.Ngoài Bắc và Trung nổi tiếng có Hùm thiêng Yên thế Hoàng hoa Thám (Đề Thám), có Đinh Công Tráng với Chiến lũy Ba đình, có Nguyễn Thiện Thuật với Chiến khu Bãi sậy, có Phan Đình Phùng với Phong trào Văn thân ….Cùng lúc, ở trong Nam có Nguyễn Hữu Huân (Thủ khoa Huân), Truơng Công Định, Trần văn Thành, Võ Duy Dương (Thiên hộ Dương)…Và một trong những tấm gương hy sinh sáng ngời mà chúng ta không thể quên được, đó là Anh hùng Nguyễn Trung Trực.
Ngài Nguyễn Trung Trực sinh trưởng tại một xóm chài lưới có tên là Xóm Nghề, Bến Lức, Long An, tên thật Nguyễn Văn Chơn. Từ thuở thiếu thời, thường được gọi thân mật là “Cậu Năm Lịch” hoặc “anh chài Lịch” lúc nhỏ Ông rất hiếu động, ham học võ, lớn lên nổi tiếng là trang thanh niên tuấn tú, võ nghệ cao cường, hào khí hun đúc tâm can, thiên khiếu quân sự thăng hoa phát tiết. Gia đình Ngài gốc người miền Trung nguyên quán làng Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, sau di chuyển vào Nam lập nghiệp, ngụ tại làng Bình Nhựt, huyện Thuận An, phủ Tân An (nay thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An), sống bằng nghề chài lưới.
Sinh ra và lớn lên giữa lúc Thực dân Pháp đem quân vào xâm lược Việt nam, Ngài không thể khoanh tay ngồi nhìn cảnh quốc phá gia vong, sanh linh đồ thán nên cùng bạn là Nguyễn Văn Cầm chiêu tập nghĩa binh, áp dụng chiến thuật du kích đánh Pháp và mặc dù với vũ khí thô sơ nhưng đoàn nghiã binh của Ngài đã lập nên nhiều chiến tích lẫy lừng, làm khiếp đảm quân thù xâm lược.
Trong khí thế chống giặc ngoại xâm của sĩ phu và dân chúng miền Nam, ông Nguyễn Trung Trực đã ráo riết bố trí quân bị, tung ra những trận đánh du kích tại Tân An, vùng đất “mở đường” cho sự nghiệp thiên niên sử xanh của ông về sau. Ðịa bàn hoạt động của lực lượng kháng chiến trong gần ba năm từ 1860 đến 1862 là vùng Tân An, Ðịnh Tường, Biên Hòa. Các địa danh Thủ Thừa, Bến Lức, Bình Trinh, Nhựt Tảo (Tân An); Vũng Gù (Ðịnh Tường ); Tân Uyên, Phước Lý, Long Thành (Biên Hòa) đã khiến tiếng tăm ông lẫy lừng.
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (25 tháng 2 năm 1861), Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho (tức thành Định Tường thất thủ vào ngày 12 tháng 4 năm 1861) nên thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động.
Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Chiến thuyền Espérance được coi như một “căn cứ nổi” rất lợi hại trên nhiều mặt: đóng vai trò một thành lũy bố phòng; một pháo đài để tấn công và yểm trợ; một phương tiện di động để điều động và vận chuyển binh lính, quân nhu, lại được sử dụng như một đơn vị “dưỡng quân” nữa. Chiến thuyền Espérance đã đóng một vai trò “chiếm đóng” và “bình định” cả một vùng địa phương rộng lớn. Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Chỉ huy tàu là Parfait - một viên sĩ quan trẻ tuổi. Vì tầm quan trọng về mặt chiến thuật, chiến lược như vậy, cho nên bằng mọi giá, lực lượng nghĩa quân phải phá chiến thuyền ấy cho bằng được.
Quyền quản binh Nguyễn Trung Trực ra lệnh cho phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang chuẩn bị kế hoạch tấn công tàu chiến Pháp. Hai người này đem binh thuyền dọc theo ven sông, gần chỗ tàu Pháp đậu, cho nghĩa quân núp sẳn hai bên bờ.
Sáng ngày 10/12/1861, sau khi bố trí lực lượng phục kích trên bờ và dụ cho một bộ phận địch rời khỏi tàu, Nguyễn Trung Trực đã cùng 59 nghĩa quân lên 5 chiếc ghe giả làm ghe buôn lúa tiên sát tàu địch. Viên trưởng tàu tưởng là ghe buôn lúa muốn ghé xin phép lưu thông nên nghiêng mình ra cửa sổ tàu và bị nghĩa quân đâm trúng ngực. Tức thì nghĩa quân từ các mui ghe nhày lên công kích tàu. Hơn 150 nghĩa quân, tay cầm gươm giáo, đuốc, trong phút chốc tràng ngập cả tầng trên tàu và đánh xáp lá cà với bọn thủy thủ Pháp.
Võ Văn Quang cùng với 30 nghĩa quân phục kích sẳn ở đây cũng nhảy lên tàu tiếp chiến. Quản Toán là Nguyễn Học, hương thân Hồ Quang lấy búa sắt phá tàu không vỡ nên phóng lửa đốt tàu. Vài phút sau lửa cháy dữ dội, nghĩa quân và thủy thủ trên tàu đều nhảy xuống sông hay tuột xuống ghe rời khỏi tàu Espérance. Do bị tấn công bất ngờ nên thực dân Pháp không kịp trở tay, toàn bộ địch trên tàu bị tiêu diệt.
Một ý kiến khác cho rằng trong trận đánh này, ông Nguyễn Trung Trực cho giả làm thuyền đám cưới qua sông rước dâu. Hai ghe ghé sát tàu xin pẹc-mi (giấy phép) di chuyển sang bên kia địa phương để rước dâu. Ðóng vai chú rể là Nguyễn Trung Trực, trong người thủ sẵn một chiếc búa thầu nặng năm cân ta (khoảng 3 ký lô). Nhơn lúc bất ngờ, ông rút búa nện chết tên lính gác tàu mà “chú rể” vừa “múa tay, múa chân” năn nỉ xin giấy đi “cưới vợ”. Bọn lính Pháp trở tay không kịp, không thể sử dụng súng để bắn trả nên bị tiêu diệt gần hết. Nhưng hầu hết là đều chấp nhận ý kiến Nguyễn Trung Trực giả làm thuyền buôn lúa, trong đó có sự đồng thuận của một số người tác giả người Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner…
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát (2 lính Pháp và 3 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní).
Cuộc tấn kích của Nguyễn Trung Trực trên sông Nhật Tảo là ngọn lửa chăm ngòi cho những cuộc nổi dậy đồng loạt của quân kháng chiến để tấn công đốt phá đồn bót của quân Pháp ở khắp nơi từ ngày 14 đến 30 tháng 12 năm 1861. Từ Tân An, Cần Giuộc, Gò Công đến Gia Thạnh, Cái Bè, Rạch Gầm. Quân kháng chiến bị thiệt hại nhiều trong chiến dịch tổng tấn công nầy. Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã viết về người anh hùng Nguyễn Trung Trực với chiến công này như sau:
"Lửa hồng Nhật Tảo vang trời đất
Gươm lóe Kiên Giang rúng quỷ thần
Ngẩng cổ anh hùng vang thọ mãi
Cúi đầu thẹn chết lũ phi nhân”
Tin chiến thắng Nhật Tảo bay đi làm nức lòng quân dân cả nước. Vua Tự Đức đã thưởng cho Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang, cùng hai mươi người làm cai đội ngân tiền. Còn 4 người bị chết, cấp cho tiền tuất gấp hai và ấm nhiêu cho con hay cháu gọi bằng chú hay bác ruột. Những cử nhân, thổ hào ứng nghĩa ở Định Tường cũng đều được thưởng phẩm hàm và ngân tiền.
Năm 1862, ba tỉnh miền Đông Nam kỳ rơi vào tay Pháp, Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Bình Định nhậm chứ lãnh binh. Đến giữa năm 1867 lại về Hà Tiên giữ chức Thành thủ úy. Năm này, quân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Triều đình đều ông ra Bình Thuận, nhưng ông cưỡng lệnh, ở lại Hòn Chông (Kiên Giang ) tổ chức kháng chiến.
Vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, nghĩa quân cùng nhiều người dân yêu nước (có cả hương chức và người Hoa, người Khmer) do Nguyễn Trung Trực chỉ huy đã bí mật, bất ngờ đánh úp đồn Kiên Giang, do quan tư An Sart chỉ huy, tiêu diệt đối phương, trong số đó có 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng và nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền. Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Hai ngày sau (ngày 18 tháng năm 1868), trung tá hải quân A. Léonard Ansart, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm chống đối phương lâu dài.
Quân Pháp cho cô lập hoàn toàn chiến khu và huy động toàn lực tấn công nghĩa binh nên lực lượng của Ngài dần dần suy yếu. Thêm vào đó, hai tên Việt gian là Huỳnh Công Tấn và Đỗ Hữu Phương bày mưu cho Pháp bắt mẹ Ngài và một số đồng bào làm con tin, rồi báo cho Ngài biết nếu không chịu ra hàng, chúng sẽ chặt đầu mẹ Ngài và giết hết dân làng. Biết không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, Ngài tự trói mình ra hàng để cứu mẹ và dân lành vô tội. Quân Pháp nhiều lần chiêu dụ không được nên đem Ngài ra hành quyết tại chợ Rạch Giá ngày 27 tháng 10 năm 1868 (nhằm ngày 28 tháng 8 năm Mậu Thìn). Được tin Ngài thọ tử, Vua Tự Đức cho làm lễ truy điệu và sắc phong Ngài làm Thượng Đẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân (Rạch Giá) nơi Ngài hiên ngang chịu chết chớ không chịu đầu hàng giặc Pháp.
Với hai chiến công oanh liệt “Hỏa Nhật Tảo thuyền” (12/10/1861), và “Đồ Kiên Giang lũy” (16/06/1868), Nguyễn Trunng Trực đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX như một gương sáng về lòng yêu nước. Câu nói bất hủ của ông: “Bao giờ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam yêu nước chống Tây” như một lời tuyên thệ với non sông đất nước.
Bất chấp sự cấm đoán của kẻ thù, sau khi ông mất, dân chúng đã dựng đền thờ ông tại Rạch Giá, Phú Quốc và cả ở quê hương ông. Hằng năm, vào các ngày 26,27,28 tháng 8 âm lịch tại đền thờ Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá, nhân dân Kiên Giang tổ chức lễ hội trọng thể, thu hút hàng ngàn người tham dự.
Subscribe to:
Posts (Atom)